Bản án 07/2019/HS-ST ngày 19/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 19/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 7 năm 2019, tại Hội trường Nhà Văn hóa khóm 6, Thị trấn Hải Lăng, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2019/HS-ST ngày 20/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2019/HS-ST ngày 04/7/2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN NGỌC H, sinh ngày 16/12/1993, tại TT Huế; Nơi cư trú: Số 22, Kiệt 187 Ph, phường Ph Nh, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: không nghề nghiệp; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Việt H (chết) và bà Trần Thị S (không rõ năm sinh và địa chỉ); có vợ là Võ Thị L, sinh năm 2000 và có 01 con, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 09/12/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 21/6/ 2012, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 21/5/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong bản án ngày 04/3/2016; Ngày 08/6/2018, bị Công an Thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng) về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Bùi Ngọc H, sinh năm 1981

Trú tại: Thôn C Nh, xã H Ch, huyện H L, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Kịm Thành T, sinh năm 1996

Trú tại: Số 22, Kiệt 187 Ph, phường Ph Nh, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ 15 phút, ngày 13 tháng 12 năm 2018, Nguyễn Ngọc H (Sinh năm 1993), nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú: Số 22, Kiệt 187 Ph, phường Ph Nh, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, mượn xe mô tô biển kiểm soát 75H8-2150 của anh Hoàng Kim Thành T, trú tại: Phường Ph Nh, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, mang theo các dụng cụ gồm búa, mỏ lết, cà lê, kìm, ve, tuốt nơ vít, xem có nhà ai sơ hở thì vào trộm cắp tài sản, khi đến khu vực thôn M Ch, xã H Ch, huyện H quan sát thấy gara ô tô của anh Bùi Ngọc H, trú tại: Thôn C Nh, xã H Ch, không có ai, nên H vào lấy trộm 03 (Ba) tấm sắt phế liệu mang ra để sau yên xe mô tô BKS 75H8-2150 đang dựng bên lề đường Quốc lộ 1A, rồi tiếp tục vào lấy một số sắt vụn phế liệu bỏ vào bao tải gai thì bị lực lượng Công an phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/ 2013 của Chính phủ. Quá trình xử lý hành chính, Công an huyện H L xác minh được ngày 08/6/2018, H bị Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính với số tiền: 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) vì đã có hành vi “Trộm cắp tài sản”. Trong giai đoạn điều tra, bị can Nguyễn Ngọc H đã bỏ trốn khỏi địa phương nên bị cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện H L truy nã, đến ngày 21/4/ 2019 thì bị bắt khi ở tại phường Ph Nh, thành phố Huế.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 40/KL-ĐGTS, ngày 28/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H L, kết luận: 39kg (Ba mươi chín Kilôgam) kim loại sắt phế liệu gồm: Nhiều thanh kim loại sắt có hình dạng, kích thước và trọng lượng khác nhau (Loại sắt đặc), có tổng giá trị là: 273.000đ (Hai trăm bảy mươi ba nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKSHL, ngày 19/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện H L đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc H về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu.

 Tại phiên toà hôm nay, đại diện Kiểm sát viên giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H từ 06 đến 09 tháng tù. Về dân sự: Cơ quan điều tra đã trả lại các tài sản cho chủ sở hữu, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét. Về vật chứng: Ngoài những tài sản đã trả lại cho chủ sở hữu, các tài sản khác theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật TTHS cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo đồng ý với bản cáo trạng của Viện kiểm sát và không có ý kiến gì tranh luận đối với bản luận tội của Viện kiểm sát. Người người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Viện kiểm sát. Người bị hại đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng, xin HĐXX xử phạt bị cáo mức thấp nhất để trở về gia đình sinh sống với vợ con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H L, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào ngày 08/6/2018 Nguyễn Ngọc H bị Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính với số tiền: 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi “ Trộm cắp tài sản”, nhưng đến ngày 13/12/2018, Nguyễn Ngọc H vẫn tiếp tục có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của anh Bùi Ngọc H với 39 kg sắt phế liệu có trị giá 273.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Trong giai đoạn điều tra, bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương nên bị cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện H L truy nã, bị cáo đã bị xử phạt nhiều lần về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn; phạm tội gây thiệt hại không lớn; người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; cần áp dụng điểm h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS như Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo mức khởi điểm của khung hình phạt cũng đủ tính răn đe, giáo dục bị cáo.

[5]Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, cơ quan Công an đã trả lại tài sản cho bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; tại phiên tòa người bị hại và người có quyền lợi nhĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì nên không xem xét.

[6]Về vật chứng: Các vật chứng là công cụ, phương tiện bị cáo mang theo dể thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo yêu cầu tịch thu tiêu hủy vì không còn giá trị sử dụng gồm: 01 ( Một) bao tải gai màu trắng, loại bao 10kg ( Mười Kilôgam), mặt ngoài có dòng chữ Công ty TNHH Ngọc Đài; 01 (Một) kìm cắt bằng kim loại trên vỏ tay cầm có dòng chữ MEINFA-HN; 01 (Một) cái kéo bằng kim loại có bọc nhựa màu đen ở cán kéo; 01 (Một) tuốt nơ vít màu đen; 01 (Một) cái búa bằng kim loại dài 30cm ( Ba mươi Centimet); 01 (Một) cái mỏ lết bằng kim loại dài 25cm (Hai mươi lăm Centimet), trên mỏ lết có dòng chữ FORGED STEEL; 01 (Một) cái Ve chặt sắt bằng kim loại dài 12cm (Mươi hai Centimet); 01 ( Một) cờ lê bằng kim loại màu đen cỡ 17-19; 01 ( Một) cờ lê bằng kim loại màu đen cỡ 10-12 (Vật chứng đang ở tại kho Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Lăng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/7/2019).

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản".

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 21/4/2019.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật TTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 ( Một) bao tải gai màu trắng, loại bao 10kg ( Mười Kilôgam), mặt ngoài có dòng chữ Công ty TNHH Ngọc Đài; 01 (Một) kìm cắt bằng kim loại trên vỏ tay cầm có dòng chữ MEINFA-HN; 01 (Một) cái kéo bằng kim loại có bọc nhựa màu đen ở cán kéo; 01 (Một) tuốt nơ vít màu đen; 01 (Một) cái búa bằng kim loại dài 30cm ( Ba mươi Centimet); 01 (Một) cái mỏ lết bằng kim loại dài 25cm (Hai mươi lăm Centimet), trên mỏ lết có dòng chữ FORGED STEEL; 01 (Một) cái Ve chặt sắt bằng kim loại dài 12cm (Mươi hai Centimet); 01 ( Một) cờ lê bằng kim loại màu đen cỡ 17-19; 01 ( Một) cờ lê bằng kim loại màu đen cỡ 10-12.

(Vật chứng đang ở tại kho Chi cục thi hành án dân sự huyện H L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/7/2019).

Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật TTHS, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016; Bị cáo Nguyễn Ngọc H phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí HSST.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 19/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Lăng - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về