Bản án 08/2017/HNGĐ-ST ngày 07/06/2017 về ly hôn giữa chị L và anh T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÙNG KHÁNH - TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 08/2017/HNGĐ-ST NGÀY 07/06/2017 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ L VÀ ANH T

Ngày 07 tháng 6 năm 2017, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 24/2017/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 03 năm 2017. Về việc xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2017/QĐXX-ST ngày 09 tháng 05 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nông Thị L,  sinh năm: 1988.

Trú tại: Xóm Đ - xã N - huyện Trùng Khánh - tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)

2. Bị đơn: Đinh Văn T; Sinh năm: 1989.

Trú tại: Xóm Đ - Xã N - huyện Trùng Khánh - tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Đinh Thùy C; Sinh năm: 2012

Trú tại: Xóm Đ - xã N - huyện Trùng Khánh - tỉnh Cao Bằng. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị Nông Thị L: Tôi (L) kết hôn với anh Đinh Văn T vào ngày 19/01/2010 việc kết hôn của tôi do hai bên tự nguyện và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương. Không có giấy chứng nhận kết hôn. Cưới xong tình cảm vợ chồng bình thường đã có thời gian sống chung và có một con chung đặt tên là Đinh Thùy C sinh ngày 12/6/2012, hiện nay con ở với tôi.

Nguyên nhân lý do tôi làm đơn xin ly hôn anh T là: trong quá trình sống chung với nhau tôi cảm thấy tính tình không hợp, quan điểm sống không đồng nhất hay xảy ra mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Từ khi có con chồng tôi không quan tâm đến vợ, con lúc nào cũng đi chơi đêm về muộn nên tôi thấy tình cảm vợ chồng không được hạnh phúc, hôn nhân không đạt được vợ chồng không thương yêu nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn đoàn tụ được nên tôi xin ly hôn. Chính thức cắt đứt quan hệ vợ chồng sống ly thân từ ngày 02/05/2016 đến nay.

Tài sản hồi môn ngày cưới gồm có chăn, màn, 1 tủ lạnh, 1 tủ đứng và một số đồ dùng sinh hoạt hàng ngày khác hiện nay anh T đang quản lý sử dụng; Tài sản chung, tài sản riêng không có.

Nay tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh T, về con chung tôi xin được trực tiếp nuôi dưỡng và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ, về tài sản không yêu cầu Tòa án giải quyết, để cho anh T quản lý sử dụng.

Yêu cầu của bị đơn anh Đinh Văn T: Tôi (T) kết hôn cùng chị L vào ngày 19/01/2010 việc kết hôn của tôi trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện đến với nhau và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, không có giấy chứng nhận kết hôn. Cưới xong tình cảm vợ chồng bình thường đã có thời gian sống chung và có một con chung đặt tên là Đinh Thùy C sinh ngày 12/6/2012. Hiện nay con ở với chị L.

Nguyên nhân lý do chị L làm đơn xin ly hôn là trong quá trình sống chung với nhau tính tình không hợp, quan điểm sống không thống nhất, hay xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, nên chị bỏ về nhà mẹ đẻ. Chúng tôi chính thức cắt đứt quan hệ vợ chồng từ ngày 30/4/2016 đến nay.

Nay tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho vợ chồng tôi được đoàn tụ lại gia đình để cùng nhau nuôi dậy con cái.

Các tài liệu, chứng cứ nguyên đơn chị Nông Thị L cung cấp cho Tòa án gồm có: Giấy khai sinh của con (bản phô tô)

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TK phát biểu quan điểm: Qua nghiên cứu hồ sơ thấy rằng, về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án không có gì sai phạm và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 và các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L yêu cầu ly hôn với anh T.

Về giải quyết nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của các bên đương sự và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.

[1] Chị L và anh T kết hôn vào ngày 19/01/2010, việc kết hôn trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện đến với nhau và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, không có giấy chứng nhận kết hôn. Cưới xong tình cảm vợ chồng bình thường như bao gia đình khác đã có thời gian sống chung và có một con chung đặt tên là Đinh Thùy C sinh ngày 12/6/2012. Hiện nay con ở với chị L tại xóm Đ - xã N- huyện TK- tỉnh Cao Bằng.

Nguyên nhân, xin ly hôn là trong quá trình sống chung với nhau chị L cảm thấy tính tình không hợp, quan điểm sống không đồng nhất hay xảy ra mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Từ khi có con anh T không quan tâm đến vợ, con lúc nào cũng đi chơi đêm về muộn nên chị L thấy tình cảm vợ chồng không được hạnh phúc, hôn nhân không đạt được vợ chồng không thương yêu nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn đoàn tụ được nên chị L xin ly hôn. Chính thức cắt đứt quan hệ vợ chồng sống ly thân từ ngày 02/05/2016 đến nay.

[2] Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử xét thấy: Tình cảm vợ chồng không còn mặc dù hai anh, chị có được tìm hiểu, sau đó hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, nhưng không đi đăng ký kết hôn là trái với quy định của pháp luật. Cụ thể là trái với khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân gia đình quy định “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý” và khoản 1 Điều 14 quy định “Nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Như vậy, cuộc hôn nhân giữa chị L và anh T là hoàn toàn trái với các quy định của pháp luật. Chị L làm đơn để chấm dứt quan hệ vợ chồng với anh T là có căn cứ và đúng với các quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

[3] Về con Đinh Thùy C sinh ngày 12/6/2012 chị Nông Thị L nhận nuôi và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ, nếu anh T không cấp dưỡng được thì giải quyết theo pháp luật, anh T cho rằng do gia đình khó khăn, không có thu nhập nên không có tiền cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy việc nuôi con là nghĩa vụ của vợ, chồng nên anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung, tài sản riêng: không có gì;

[5] Tài sản hồi môn ngày cưới gồm: Chăn, màn, 01 tủ lạnh, 01 tủ đứng và một số đồ dùng sinh hoạt hàng ngày khác hiện nay anh T đang quản lý sử dụng, chị không đặt vấn đề chia, chị L tự nguyện nhượng cho anh T quản lý sử dụng là phù hợp với tình, lý và đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 và các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Nay xử không công nhận chị Nông Thị L và anh Đinh Văn T là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Đinh Thùy C sinh ngày 12/06/2012 cho chị Nông Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến tuổi trưởng thành (18 tuổi). Anh T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 600.000đ việc đóng góp được thực hiện từ ngày 07 tháng 6 năm 2017.

Anh T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

2. Về án phí: Chị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm dân sự để sung công quỹ Nhà nước. Xác nhận chị L đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trùng Khánh theo biên lai số AB/2012/00985 ngày 15/03/2017.

Anh Đinh Văn T phải nộp tiền án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng.)

3. Báo cho các đương sự được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. Người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2017/HNGĐ-ST ngày 07/06/2017 về ly hôn giữa chị L và anh T

Số hiệu:08/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về