Bản án 08/2018/HNGĐ-ST ngày 30/01/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 08/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/01/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 30 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 398/2017/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2017 về việc: “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2018/QĐXX-ST ngày 02 tháng 01 năm 2018, giữa các đương sự:

 Nguyên đơn

Anh Võ Văn V, sinh năm 1975

Trú tại: P 5, thành phố MT, tỉnh TG.

 Bị đơn

Chị Huỳnh Ngọc H, sinh năm 1981

Trú tại: Phường PK, thành phố BT, tỉnh BT.

(Ông V có mặt, bà H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa: Theo nguyên đơn Võ Văn V trình bày:

Anh Vân và chị Huỳnh Ngọc H tự quen biết, tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân P 5, thành phố MT, tỉnh TG vào ngày 08/3/2007. Sau khi kết hôn thì anh V, chị H sống bên gia đình anh Vân, vợ chồng chung sống hạnh phúc được hai năm thì phát sinh mâu thuẩn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, nguyên nhân do anh Vân làm nghề thợ hồ vào mỗi cuối tuần đều có nhậu nhẹt nên chị H không đồng ý cho anh V uống rượu, vì vậy vợ chồng thường xuyên cải nhau, mâu thuẩn ngày càng trầm trọng, hai bên gia đình cũng đã can thiệp nhiều lần, vợ chồng đã cố gắn hàn gắn tình cảm để cùng chung sống nhưng không đạt kết quả, mâu thuẩn kéo dài đến năm 2009 thì chị H đã bỏ về nhà cha mẹ ruột tại tỉnh BTsống cho đến nay. Anh V và chị H đã ly thân từ năm 2009 đến nay. Nay anh Vân xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh V được ly hôn với chị H.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Huỳnh Ngọc H:

Chị H vắng mặt, không tham gia tố tụng mặt dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho chị H nên không có lời trình bày của chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ kiện xin ly hôn và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

[2] Về tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã tống đạt thông báo thụ lý, tống đạt thông báo về việc mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải 02 lần cho chị Huỳnh Ngọc H nhưng chị H không có mặt theo thông báo hòa giải nên không thể tiến hành hòa giải được. Ngoài ra, trong quá trình tố tụng Tòa án đã tiến hành tống đạt giấy triệu tập hợp lệ 02 lần cho chị Huỳnh Ngọc H để tham gia phiên tòa nhưng chị H vẫn vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Huỳnh Ngọc H.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của anh Võ văn V:

Về hôn nhân: Anh V và chị H tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân P 5, thành phố MT, tỉnh TG vào ngày 08/3/2007 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được hai năm thì phát sinh mâu thuẩn.

Tại phiên tòa anh V cho rằng nguyên nhân mâu thuẩn là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, mâu thuẩn kéo dài nên vợ chồng anh V đã ly thân từ năm 2009 đến nay đã gần tám năm. Anh V vẫn giữ quan điểm xin được ly hôn với chị H. Chị H vắng mặt không có lời trình bày nhưng Công an phường PK, thành phố BT đã xác nhận chị Huỳnh Ngọc H hiện nay đang sinh sống và đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường PK, thành phố BT, tỉnh BT. Điều này chứng tỏ lời khai của anh V cho rằng anh V và chị H đã ly thân từ năm 2009 đến nay là có cơ sở.

Xét thấy mâu thuẫn giữa anh V và chị H thực tế có xảy ra, đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ly hôn là biện pháp tốt nhất nhằm đem lại tự do cho cả hai bên. Tại phiên Tòa hôm nay anh V xác định không còn tình cảm với chị H. Anh V và chị H cũng đã ly thân đến nay được khoảng tám năm, nên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh V căn cứ nên được chấp nhận.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Anh V khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng anh V phải nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điều 28, 147, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Võ Văn V đối với chị Huỳnh Ngọc H. Về hôn nhân: Anh Võ Văn V được ly hôn với chị Huỳnh Ngọc H.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm ngàn) anh Võ Văn V phải nộp nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn) đã nộp theo biên lai thu số 0011453 ngày 05/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre. Anh V đã nộp xong án phí.

Anh Võ Văn V có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Huỳnh Ngọc H vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2018/HNGĐ-ST ngày 30/01/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:08/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về