Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 05/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 08/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 9 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Krông Nô tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 30/2019/TLST-HNGĐ, ngày 16 tháng 4 năm 2019, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 06 tháng 8 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 22 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1991. (có mặt)

Địa chỉ: Buôn 9, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

Bị đơn: Anh Đỗ Văn Đ, sinh năm 1989. (vắng mặt)

Địa chỉ: Buôn O, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 22/3/2019 và quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn chị Vũ Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H và anh Đỗ Văn Đ kết hôn năm 2015 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện K. Sau khi kết hôn cuộc sống giữa chị H và anh Đ không hạnh phúc thường nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống. Chị H và anh Đ đã không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2019 đến nay, xét mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng cuộc sống chung không thể kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, nên chị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Chị Vũ Thị H và anh Đỗ Văn Đ có 01 con chung là Đỗ Bá Q, sinh ngày 18/02/2016. Chị H có nguyện vọng được nuôi con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Đ, tuy nhiên anh Đ vắng mặt, do đó Tòa án không thể tiến hành hòa giải; tại phiên tòa, anh Đ vắng mặt không lý do.

Kim sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX và Người tham gia tố tụng:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và HĐXX: Đã chấp hành đầy đủ theo quy định của pháp luật từ quá trình thụ lý, lập hồ sơ vụ án Thẩm phán đã tiến hành đúng theo quy định của pháp luật. Xác định đúng quan hệ tranh chấp giữa các bên; Tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ đến các đương sự. Thẩm phán đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đúng theo quy định. Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng mọi thủ tục, trình tự xét xử theo đúng quy định. Hội đồng xét xử đúng thành phần, thực hiện đúng theo quy định, không có trường hợp nào phải thay đổi người tiến hành tố tụng, Hội đồng xét xử đã hỏi và thu thập chứng cứ đúng theo quy định của pháp luật.

Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ các quy định, quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Bị đơn đã được triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Sau khi phân tích các tình tiết của vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, về con chung giao con chung cho chị H nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

1.1. Về thẩm quyền giải quyết: Chị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và quyền nuôi con chung khi ly hôn nên quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Bị đơn là anh Đỗ Văn Đ có nơi cứ trú tại buôn O, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Krông Nô theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đi với anh Đỗ Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ.

[2]. Về nội dung:

2.1. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị H và anh Đỗ Văn Đ được pháp luật công nhận, vì có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện K theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân gia đình.

Ti phiên tòa chị H giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Đ, xét yêu cầu của chị H là có căn cứ để chấp nhận, vì mâu thuẫn gia đình giữa chị H và anh Đ là có thật do không có sự hòa hợp và bất đồng về quan điểm sống nên dẫn đến cãi nhau. Qua xác minh cũng xác định được trong quá trình chung sống giữa chị H và anh Đ cũng thường xảy ra mâu thuẫn, mặc dù không yêu chính quyền địa phương giải quyết, nhưng hiện nay chị H và anh Đ không còn sống chung với nhau. Điều này cho thấy hôn nhân giữa chị H và anh Đ không thể hàn gắn được, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận cho chị Vũ Thị H ly hôn anh Đỗ Văn Đ là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

2.2. Về con chung: Chị H và anh Đ có 01 con chung là Đỗ Bá Q, sinh ngày 18/02/2016, chị H có nguyện vọng muốn nuôi con và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Sau khi chị H và anh Đ không còn sống chung thì con chung sống cùng chị H cho đến nay, chị H có thu nhập ổn định có thể đảm bảo đầy đủ quyền lợi về mọi mặt của con. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng giao con cho chị H chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị H không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Sau khi ly hôn chị Vũ Thị H và anh Đỗ Văn Đ có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung theo quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án gải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Về án ph: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Chị Vũ Thị phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 235, Điều 266, Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị H ly hôn anh Đỗ Văn Đ.

2. Về con chung: Giao con Đỗ Bá Q, sinh ngày 18/02/2016 cho chị Vũ Thị H trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Chị H không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn chị Vũ Thị H ly hôn anh Đỗ Văn Đ có các quyền, nghĩa vụ sau:

- Quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chưa thành niên theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

- Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân gia đình.

- Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 83 Luật hôn nhân gia đình.

- Quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.

3. Về án phí: Buộc chị Vũ Thị H phải nộp số tiền 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0000914, ngày 16 tháng 4 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 05/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:08/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về