Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN KHÁNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 08/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ LY HÔN

Trong ngày 07 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 12 /2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2019 về việc: Ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2019 ngày 26 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H - Sinh năm: 1997.

Đa chỉ: Xóm 9, xã Khánh N, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc D - Sinh năm: 1991.

Đa chỉ: Xóm 10, xã Khánh H, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Tại phiên tòa có mặt chị Phạm Thị H còn vắng mặt anh Nguyễn Quốc D (anh D vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai cùng các văn bản khác nguyên đơn là chị Phạm Thị H trình bày: Chị và anh D sau thời gian tự do tìm hiểu khoảng một năm, sau đó anh chị quyết định xây dựng gia đình với nhau, đăng ký kết hôn vào ngày 29/6/2017 tại Ủy ban nhân dân xã Khánh H, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Chị và anh D kết hôn trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, lừa dối gì. Sau đó được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống và vợ chồng về sinh sống cùng với bố mẹ anh D, tại xã Khánh H, huyện Yên Khánh. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn chủ yếu là do tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên xảy ra bất đồng trong cuộc sống, sau đó vợ chồng sống không có hạnh phúc, nên đến tháng 9/2018 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại xã Khánh N để sinh sống, kể từ đó cho đến nay vợ chồng sống ly thân nhau, trong thời gian này chị và anh D không còn quan tâm, liên lạc gì với nhau nữa. Nay chị xác định mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn, chị và anh D không thể về đoàn tụ được nên chị yêu cầu giải quyết cho chị được ly hôn với anh D.

Về con: Trong quá trình chung sống cho đến nay vợ chồng chưa có con chung, về con riêng chị và anh D không ai có. Do vậy nay ly hôn chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Chị và anh D trong quá trình chung sống cho đến nay vợ chồng không có tài sản chung, về tài sản riêng, công nợ và đất nông nghiệp không có, do vậy nay ly hôn chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Quốc D, hiện tại anh đang có hộ khẩu và làm ăn sinh sống tại xóm 10, xã Khánh H, huyện Yên Khánh. Trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án thì anh D đã được Tòa án tống đạt trực tiếp thông báo thụ lý vụ án, sau đó Tòa án báo gọi nhiều lần và trực tiếp giao các văn bản tố tụng cho anh D thông qua ông Nguyễn Văn Đ là bố đẻ của anh D đã nhận thay và Tòa án đã có văn bản xác định việc ông Đ đã giao cho anh D các văn bản trên, nhưng anh D vẫn không đến Tòa án làm việc. Việc anh D không đến Tòa án làm việc, không giao nộp bất cứ tài liệu chứng cứ và bản tự khai cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì anh D phải chịu hậu quả của việc không giao nộp tài liệu, chứng cứ và không đến Tòa án làm việc. Do vậy Tòa án căn cứ và các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Kim sát viên tham gia phiên tòa có quan điểm: Về thủ tục: Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn không thực hiện về các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc anh Nguyễn Quốc D vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, nên căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của chị Phạm Thị H, xử cho ly hôn với anh Nguyễn Quốc D. Về con, tài sản không có nên nay ly hôn chị H không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vào ngày 26/4/2019 có mặt chị Phạm Thị H còn anh Nguyễn Quốc D vắng mặt lần thứ nhất không có lý do, Hội đồng xét xử đã ra quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay chị Phạm Thị H có mặt còn anh Nguyễn Quốc D vẫn vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sơ thẩm vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Quốc D đã có thời gian tự do tìm hiểu nhau một năm, sau đó mới kết hôn, trước khi cưới anh chị đã tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 29/6/2017 tại Ủy ban nhân dân xã Khánh H, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh D là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn anh chị chung sống được thời gian ngắn thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn là do tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống, từ đó vợ chồng chung sống không có hạnh phúc. Mặt khác vợ chồng lại khó khăn về việc sinh con. Do vậy cuộc sống vợ chồng lại trở nên căng thẳng và không có tiếng nói chung, từ đó dẫn đến tình cảm vợ chồng bị dạn nứt và chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ tháng 9 năm 2018 cho đến nay. Trong quá trình sống ly thân giữa chị H và anh D không còn quan tâm đến nhau nữa. Tại phiên tòa chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Quốc D. Căn cứ vào tài liệu do chị H xuất trình cũng như qua biên bản làm việc và xác minh tại chính quyền địa phương cho thấy hôn nhân giữa chị H và anh D trong quá trình chung sống đã phát sinh mâu thuẫn, chị H và anh D chung sống cùng nhau nhưng không đem lại hạnh phúc cho nhau, dẫn đến chị H và anh D đã sống ly thân, tình cảm giữa chị H và anh D không còn, không có khả năng về đoàn tụ. Từ những căn cứ và đánh giá nêu trên có đủ căn cứ để khẳng định tình trạng hôn nhân giữa chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Quốc D đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị H xin ly hôn với anh Nguyễn Quốc D là phù hợp.

[3] Về con: Chị Phạm Thị H và anh Anh Nguyễn Quốc D cho đến nay không có con chung, về con riêng chị H và anh D không ai có, do vậy chị H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản: Trong quá trình Tòa án giải quyết thì chị Phạm Thị H xác định vợ chồng không có tài sản chung, về tài sản riêng, công nợ và đất nông nghiệp không có, nay ly hôn chị H không yêu cầu giải quyết, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Phạm Thị H là nguyên đơn phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật để sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 và khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/BUTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

X:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Phạm Thị H về việc “ Ly hôn ” đối với anh Nguyễn Quốc D.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H được ly hôn anh Nguyễn Quốc D.

- Về con và tài sản, công nợ, đất nông nghiệp: Chị Phạm Thị H xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải nộp 300.000 đồng ( ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm Hôn nhân và gia đình để sung quỹ Nhà nước. Được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị đã nộp theo biên lai số AA / 2013/ 0001966 ngày 15 tháng 01 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án Dân sự, người phải thi hành án Dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

394
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về ly hôn

Số hiệu:08/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về