Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 19/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BÔI – TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 08/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bôi – tỉnh Hòa Bình, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 108/2019/TLST-HNGĐ, ngày 25 tháng 6 năm 2019, về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXX-ST ngày 08/8/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Vũ Đăng K, sinh năm 1978. Có mặt

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H sinh năm 1985. Vắng mặt

Đều trú tại: thôn đội 3, xã Nam Thượng, huyện Kim Bôi, Hòa Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/6/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Vũ Đăng K trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện KB, tỉnh HB vào ngày 10/3/2004. Sau kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc có 01 con chung là Vũ Phương A sinh ngày 08/8/2005. Từ tháng 11/2007, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và việc nuôi dạy con chung dẫn đến tình trạng vợ chồng không có tiếng nói chung, chị H đã bỏ nhà đi làm ăn xa, thỉnh thoảng có gọi điện thoại về cho con và gia đình bên ngoại nhưng không cho anh biết địa chỉ. Anh có nhắn về để đoàn tụ nuôi dạy con nhưng chị H không về. Vợ chồng ly thân đã lâu, không quan tâm đến nhau, nay xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, anh xin ly hôn chị H và xin được nuôi con chung là Vũ Phương A sinh ngày 08/8/2005, anh K chưa yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: anh K xác nhận vợ chồng không có tài sản, không có công nợ chung nên không đề nghị Tòa giải quyết.

Bị đơn là chị Nguyễn Thị H đã được triệu tập hợp lệ đến Tòa án để ghi lời khai, trình bày ý kiến, tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị H vẫn không có mặt tại Tòa án, do đó Tòa án không ghi được lời khai và không tiến hành hòa giải được. Tòa án đã tiến hành niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa lần thứ 2 nhưng chị H vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bôi phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử như sau:

- Về tố tụng:

+ Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, thấy rằng: Thẩm phán đã chấp hành tốt qui định tại điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, việc thụ lý đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ tranh chấp. Quá trình điều tra xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng đảm bảo đúng quy định của pháp luật cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng thời gian quy định.

+ Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

+ Về chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Đối với nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn anh Vũ Đăng K chấp hành tốt các quy định tại các Điều 70, điều 71 của BLTTDS. Đối với bị đơn: chị Nguyễn Thị H mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do, như vậy chị H đã từ bỏ quyền của mình quy định tại các Điều 70, 72 của BLTTDS.

- Về nội dung:

+ Đề nghị HĐXX căn cứ vào Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Vũ Đăng K. Xử cho anh Vũ Đăng K được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.

+ Về con chung: Giao cho anh Vũ Đăng K trực tiếp nuôi con Vũ Phương A sinh ngày 08 tháng 08 năm 2005. anh Vũ Đăng K chưa yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Chị H được quyền thăm nom con chung theo quy định của pháp luật.

+ Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng không có, không yêu cầu giải quyết nên không đề cập.

+ Về án phí: Anh K phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Vũ Đăng K có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình giải quyết việc hôn nhân gia đình của anh và chị Nguyễn Thị H. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình.

Bị đơn là chị Nguyễn Thị H đã được triệu tập hợp lệ để ghi lời khai, trình bày ý kiến, tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị H vẫn không có mặt tại Tòa án, do đó không ghi được lời khai và không tiến hành hòa giải được. Tòa án đã tiến hành niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng chị H vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai.

Quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị H không có mặt theo giấy triệu tập mà không có lý do. Tòa án đã xác minh nơi cư trú của chị Nguyễn Thị H, tiến hành tống đạt thông báo các văn bản tố tụng theo đúng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 172; khoản 3, khoản 5 Điều 177 và Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chị H được triệu hợp lệ mà vẫn vắng mặt không có lý do nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị H theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét quan hệ hôn nhân giữa anh Vũ Đăng K và chị Nguyễn Thị H là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn ngày 10/3/2004 tại UBND xã MH. Do vậy hôn nhân giữa anh K và chị H là hợp pháp.

Anh K xác nhận quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và cách nuôi dạy con, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Chị H đã bỏ nhà đi làm ăn từ năm 2007, vợ chồng ly thân, mỗi người một nơi, không còn quan tâm chăm sóc đến nhau.

Qua kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Nam Thượng, huyện Kim Bôi và tại gia đình của chị H đều xác nhận anh K chị H có hộ khẩu tại thôn đội N, xã NT, huyện KB. Mâu thuẫn vợ chồng đã lâu, gia đình nội ngoại hòa giải nhưng không không có kết quả, hiện nay chị H đã bỏ nhà đi làm ăn xa, thỉnh thoảng có gọi điện thoại và về nhà Ngoại nhưng không ai biết địa chỉ chị H ở đâu. Gia đình có thông báo việc anh K xin ly hôn và các văn bản triệu tập của Tòa án nhưng chị H không về để giải quyết, đề nghị Tòa án cho anh K chị H ly hôn để giải phóng cho nhau. Xét thấy mâu thuẫn giữa anh K và chị H đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, chị H biết anh K nộp đơn xin ly hôn nhưng vẫn cố tình vắng mặt không có lý do, không đến Tòa án để thể hiện ý kiến của mình, điều này chứng tỏ chị H cũng không mong muốn được hàn gắn để vợ chồng về chung sống. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Vũ Đăng K được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.

[3] Về con chung: anh Vũ Đăng K và chị Nguyễn Thị H có 01 con chung là: Vũ Phương A, sinh ngày 08 tháng 08 năm 2005. Anh K xin được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và chưa yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, cháu Vũ Phương A hiện nay đang ở với anh K và có nguyện vọng muốn được ở với anh K, anh K có công việc và thu nhập ổn định. Phía chị H hiện nay không có mặt tại địa phương, không có lời khai thể hiện quan điểm về giao nuôi con chung. Để đảm quyền lợi cũng như ổn định cuộc sống của con, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cho anh K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cháu Vũ Phương A.

Về cấp dưỡng nuôi con: anh K chưa yêu cầu chị H dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[4] Về tài sản chung, công nợ chung: anh Vũ Đăng K xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không có công nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: anh Vũ Đăng K phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 51, Điều 56, điều 58 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Vũ Đăng K. Xử cho anh Vũ Đăng K được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.

2/ Về con chung: Giao cho anh Vũ Đăng K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con Vũ Phương A, sinh ngày 08 tháng 08 năm 2005. anh Vũ Đăng K chưa yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Chị H được quyền thăm nom con chung theo quy định của pháp luật.

3/ Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Vũ Đăng K phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số: 0001326 ngày 25/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình; anh Vũ Đăng K đã nộp xong án phí.

4. Về quyền kháng cáo: anh Vũ Đăng K có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 19/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:08/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bôi - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về