Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 27/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 08/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/02/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tr, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 324 /2018/HNGĐ - ST ngày 11 tháng 12 năm 2018 về “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2019/QĐST- HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2019 và giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vi Thị L, sinh năm 1994

HKTT: Thôn Giang, xã Xuân C, huyện Thường X, tỉnh T.

Nơi làm việc: Công ty TNHH giầy Alezon Việt Nam- Khu công nghiệp Hoàng L , Hoằng H, T.

- Bị đơn: Anh Vũ Hải H , sinh năm 1988

Trú tại: Xóm 8, xã Khuyến N, huyện Tr, tỉnh T. 

Chị L và anh H đều có đơn đè nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai, cũng như đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn là chị Vi Thị L trình bày giữa chị và bị đơn là anh Vũ Hải H đăng ký kết hôn ngày 10 tháng 05 năm 2012 tại UBND xã Khuyến N, huyện Tr, tỉnh T trên cơ sở tự nguyện.

Quá trình vợ chồng chung sống với nhau đoàn tụ hạnh phúc được khoảng gần 04 năm, thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, đời sống vợ chồng không thể hòa hợpđược, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ  chồng anh, chị đã sống ly thân từ tháng 9 năm 2017 cho đến nay, vợ chồng không ai quan tâm đến ai. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Hải H.

Về con chung: Vợ chồng anh, chị có 02 con chung với nhau, tên các cháu là Vũ Thị Hương G, sinh ngày 19/02/2013 và cháu Vũ Thảo N sinh ngày 03/8/2015. Hiện nay anh H đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Hương G, chị L nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Thảo N. Ly hôn nguyện vọng của chị L là giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

Về tài sản và phần nợ: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Vũ Hải H trình bày anh và chị L đăng ký kết hôn và chung sống với nhau như chị L trình bày là hoàn toàn đúng. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên anh cũng đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.

Về con chung: Anh H trình bầy vợ, chồng anh chị có hai con chung, tên các cháu là Vũ Thị Hương G, sinh ngày 19/02/2013 và cháu Vũ Thảo N sinh ngày 03/8/2015. Hiện nay cháu Hương G đang ở cùng anh H, cháu Thảo N đang ở cùng chị L. Ly hôn anh đề nghị được tiếp tục nuôi cháu Hương G, giao cho chị L nuôi dưỡng cháu Thảo N, vấn đề cấp dưỡng không đặt ra.

Về tài sản và phần nợ: Anh H không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại biên bản xác minh liên quan đến người chưa thành niên trong vụ án hôn nhân và gia đình, UBND Khuyến N cho biết, nguyên nhân xảy ra tranh chấp là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình vợ chồng không hòa hợp, dẫn đến vợ chồng anh, chị đã sống ly thân nhau. Hiện nay anh H đang chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hương G, chị L đang trực tiếp nuôi cháu Thảo N.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tr tham gia phiên tòa có ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 55 luật hôn nhân gia đình, công nhận sự thuận  tình ly hôn giữa chị Vi Thị L và anh Vũ Hải H. Về con chung công nhận sự thỏa thuận nuôi con giữa chị L và anh H; Về tài sản: Vợ chồng anh, chị không yêu cầu nên không xét; Về án phí: Chị Lphải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1].Về tố tụng: Chị Vi Thị L và anh Vũ Hải H đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, áp dụng Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2].Về hôn nhân: Chị L và anh H đăng ký kết hôn ngày 10 tháng 5 năm 2012 tại UBND xã Khuyến N, huyện Tr, tỉnh T trên cơ sở tự nguyện, như vậy là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống với nhau vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc được khoảng 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, thường xuyên bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng hay cãi nhau, dẫn đến sống ly thân từ tháng 9 năm 2017 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị L và anh H đều thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.Xét nguyện vọng yêu cầu được ly

hôn của anh, chị phù hợp với điều 55 luật hôn nhân gia đình.Vì vậy xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Vi Thị L và anh Vũ Hải H.

[3]. Về con chung: Vợ chồng anh, chị có hai con chung với nhau. Hiện nay anh H đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Hương G, chị L nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Thảo N. Ly hôn chị L, anh H đều thỏa thuận giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Việc thỏa thuận của vợ chồng anh, chị phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Vì vậy Tòa án chấp nhận sự thỏa thuận nuôi con chung giữa chị L và anh H.

[4].Về tài sản: Vợ chồng anh, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét.

[5]. Về án phí: Chị Vi Thị L phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51; Điều 55; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân vàgia đình, khoản 4 điều 147, Điều 238; Điều 271,khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều280 của Bộ luật tố tụng dân  sự. Điểm a, Khoản 5, Điều 27  Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của uỷ ban thường vụ Quốc hội, điểm 1.1, tiểumục 1, mục II phần A danh mục mức án phí, lệ phí  Toà án ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016.

Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn chị Vi Thị L và anh Vũ Hải H.

Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận nuôi con giữa chị L và anh H. Tiếp

tục giao cháu Vũ Thị Hương G cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Vũ Thảo N cho chị cho L nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, vấn đề cấp dưỡng không đặt ra.

Về tài sản: Chị L, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

Về án phí: Chị Vi Thị L phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tr, tỉnh T theo biên lai số AA/2017/0005280 ngày 11 tháng 12 năm 2018 nay trừ vào án phí ly hôn, chị L đã nộp đủ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Tuyên bố cho chị L, anh H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 27/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:08/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về