Bản án 08/2019/HSST ngày 10/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 08/2019/HSST NGÀY 10/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 10 tháng 01 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2018/HSST ngày 03 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Thanh Tùng L; Sinh năm: 1995; Tại: Lâm Đồng; Nơi ĐKNKTT và nơi cư trú: Số X quốc lộ 20, thôn T, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan Quốc T, sinh năm 1963 và con bà: Vũ Thị M, sinh năm 1963, cả hai hiện cư trú: thôn T, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; Vợ, con: chưa có;

Tiền án: Ngày 27/11/2015, Tòa án nhân dân Tp.Bảo Lộc xử phạt Phan Thanh Tùng L 36 tháng tù giam về tội Cướp tài sản theo Bản án số 103/2015/HSST. Chấp hành hình phạt tù xong ngày 07/02/2018 (chưa được xóa án tích)

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 05/10/2018 đến nay (có mặt).

Bị hại: Anh Trần Đăng K, sinh năm 1981; Cư trú tại: Phòng X cư xá H, số X đường Y, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; (có đơn xin vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Anh Nguyễn Văn C, sinh năm: 1996; Cư trú tại: Số X đường L, Phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. (vắng mặt)

2/Anh Trần Minh T, sinh năm: 1989; Cư trú tại: Số X đường H, Phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. (có đơn xin vắng mặt)

3/ Anh Vũ Thái A, sinh năm 1984; Cư trú tại: Số X đường T, Phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. (có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ ngày 26/9/2018, Phan Thanh Tùng L đi bộ đến Cư xá H để trộm cắp tài sản. L lên tầng 3, đến phòng số X của anh Trần Đăng K thấy phòng khóa cửa không có ai trông coi, ô kính trên cánh cửa bị bung nẹp gỗ giữ tấm kính. L dùng tay tháo nẹp gỗ, gỡ tấm kính kích thước (40x90)cm trên cửa ra và để bên cạnh cửa ra vào, rồi thò tay vào bên trong vặn mở ổ khóa cửa. Sau đó, L đi vào lấy trong ngăn bàn trong phòng ngủ được 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 5S màu vàng đồng, 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 1200, 01 tai nghe của điện thoại Iphone, 01 miếng vàng hiệu SJC 9999; lấy dưới sàn nhà được 01 cái bấm móng tay có chữ “KOREA” có bút viết màu xám và 01 cái bấm móng tay có chữ “KOREA” có bút viết màu đỏ mang ra ngoài.

Tài sản trộm cắp được, Phan Thanh Tùng L bán 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 5S cho anh Nguyễn Văn C, được 500.000 đồng và cho C 01 tai nghe điện thoại Iphone cùng 01 cái bấm móng tay có chữ “KOREA” có bút viết màu đỏ. Sau đó, anh C bán lại điện thoại này cho anh Trần Minh T với giá 700.000 đồng. L mang 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 1200 đến tiệm điện thoại “A” bán cho anh Vũ Thái A được 50.000 đồng. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ được 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 5S, 01 cái bấm móng tay có chữ “KOREA” có bút viết màu đỏ, 01 tai nghe điện thoại Iphone để trong hộp, 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia 1200, sau đó trả lại cho anh Trần Đăng K.

Đối với 01 cái bấm móng tay có chữ “KOREA” có bút viết màu xám, L đã cho 01 đối tượng tên T (không rõ nhân thân lai lịch) nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Đối với 01 miếng vàng hiệu SJC 9999 trọng lượng 01 chỉ, L mang đến tiệm vàng “Kim Minh Châu” bán được 3.000.000 đồng. Tuy nhiên, bà Lê Thị Vạn K không thừa nhận việc mua bán nêu trên, nên Cơ quan điều tra không thu hồi được tài sản. Số tiền có được, Phan Thanh Tùng L mua 01 lắc tay bằng bạc tại cửa hàng Kim Minh Châu với giá 1.140.000 đồng được một thời gian rồi bán lại cho cửa hàng với giá 600.000 đồng. Sau đó, cửa hàng Kim Minh Châu đã trả lại lắc tay này cho công ty sản xuất nên không thu hồi được. Số tiền có được từ việc bán các tài sản trộm cắp được, L đã tiêu xài cá nhân và chơi bắn cá thua hết nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 96 ngày 04/10/2018 của Hội đồng định giá Tp.Bảo Lộc xác định tổng giá trị tài sản mà Phan Thanh Tùng L trộm cắp của anh Trần Đăng K là 5.273.000 đồng.

Về tang vật: Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu là anh Trần Đăng K: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5s 16GB, màu vàng đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1200; 01 bấm móng tay có chữ “KOREA” có bút viết màu đỏ; 01 tai nghe hiệu Iphone.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Phan Thanh Tùng L đã bồi thường cho anh Trần Đăng K số tiền 3.710.000 đồng nên anh K không có yêu cầu gì khác về bồi thường dân sự. Anh Trần Minh T và Vũ Thái A không có yêu cầu về bồi thường dân sự.

Tại bản cáo trạng số 114/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc đã truy tố Phan Anh Tùng L về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khỏan 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Anh Tùng L thừa nhận toàn bộ nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo thừa nhận vào ngày 26/9/2018 bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp tài sản với hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì nội dung của bản cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với viện kiểm sát Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Bảo Lộc; của Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến thắc mắc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử thấy rằng, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng qui định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Bị cáo L là người có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu hợp pháp trong quản lý tài sản vào ngày 26/9/2018, bị cáo đã lén lút trộm cắp tài sản của anh Trần Đăng K để đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân với tổng giá trị là 5.273.000đ là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm trái pháp luật đến quyền sở hữu tài sản của người khác, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Đối chiếu lời khai của bị cáo; lời khai của bị hại, người có quyền lợi liên quan đến vụ án, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự, có đủ căn cứ khẳng định hành vi của bị cáo Phan Thanh Tùng L đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Xét tính chất hành vi do bị cáo L thực hiện là rất nguy hiểm cho xã hội, thể hiện thái độ bị cáo coi thường kỷ cương pháp luật, hành vi trên không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương; bị cáo đã bị kết án về hành vi này nhưng không lấy đó là bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội nên cần thiết phải áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và để răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng thấy rằng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã bồi thường cho người bị hại nên áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Về tình tiết tăng nặng: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 103 ngày 27/11/2015, Tòa án nhân dân Tp. Bảo Lộc xử phạt bị cáo Phan Thanh Tùng L 36 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Ngày 07/02/2018, Phan Thanh Tùng L đã chấp hành xong án phạt tù chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Đối với anh Nguyễn Văn C và anh Vũ Thái A, Trần Minh T là người đã mua tài sản do Phan Thanh Tùng L phạm tội ma có; tuy nhiên những người này không biết tài sản đó là do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp quy định của pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên không xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại, các đương sự không yêu cầu gì nên không xem xét.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phan Thanh Tùng L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Phan Thanh Tùng L 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2018.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về lệ phí, án phí tòa án. Buộc bị cáo Phan Thanh Tùng L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HSST ngày 10/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:08/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về