Bản án 09/2018/HSST ngày 26/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 09/2018/HSST NGÀY 26/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Cầu Giấy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/ HSST ngày 05 tháng 01 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2018/QĐXX – HS ngày 12 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: PHẠM NGỌC T - Sinh năm : 1981; ĐKHKTT: Thôn N, xã L, huyện G, tỉnh B; Chỗ ở: Số 06 ngõ 43/99/15 phố T, phường T, quận C, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Phạm Văn M; Con bà: Lê Thị B; Vợ: Nguyễn Thị Thu T; Bị can có 03 con: sinh các năm 2008, 2012 và 2017; Tiền sự: không; Tiền án: Không; Theo Danh chỉ bản số 0000000334 ngày 15/10/2017 do Công an quận Cầu Giấy lập; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 12/10/2017, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Hà Nội; Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8h55’ ngày 12/10/2017, Công an phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy,Hà Nội tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ của Phạm Ngọc T tại số 06 ngõ43/99/15 phố T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội. Qua kiểm tra cơ quan công an đã thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng tinh thể màu trắng kích thước khoảng 01 x 01 cm được cất giấu dưới chiếc thảm trên gác xép trong phòng trọ.Thái khai nhận gói nilon màu trắng bên trong đựng tinh thể màu trắng cơ quan công an thu giữ trên là ma túy “đá” của T, Khi kiểm tra, trong phòng trọ của T còncó Trần Việt T (Sinh năm: 1985, HKTT: thôn B, xã L, TP T, tỉnh T) và Lê Xuân Đ(Sinh năm: 1982, HKTT: thôn C, xã M, huyện Y, tỉnh T).

Kết luận giám định số 6460/KLGĐ-PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an TP Hà Nội kết luận tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon thu giữ của Phạm Ngọc T là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 16,842 gam.

Tại cơ quan công an, Phạm Ngọc T khai nhận: Nguồn gốc số ma túy trên T được một người bạn tên là Q (là bạn xã hội) ở trên Thái Nguyên cho từ tháng 9/2017. T mang gói ma túy trên về Hà Nội và cất giấu dưới tấm thảm trên gác xép tại phòng trọ số 06 ngách 43/99/15 phố T, phường T, quận C, Hà Nội với mục đích để sử dụng dần. Đến khoảng 8h20’ ngày 12/10/2017, Trần Việt T và Lê Xuân Đ đến phòng trọ của T chơi, Khi cả 3 đang ngồi nói chuyện thì lực lượng công an kiểm tra hành chính như đã nêu. T không nói cho T và Đ biết việc Thái cất giấu ma túy trong phòng.

Trần Việt T và Lê Xuân Đ khai phù hợp với lời khai của Phạm Ngọc T. T và Đ khai không biết việc Thái cất giấu ma túy “đá” trong phòng.

Xét nghiệm nước tiểu của Phạm Ngọc T, Trần Việt T và Lê Xuân Đ cho kết quả dương tính với chất ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra đã thông báo về địa phương việc Trần Việt T và Lê Xuân Đ sử dụng trái phép chất ma túy để quản lý.

Đối với đối tượng Q do T không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh.

Tại bản cáo trạng số 05/CT- VKS ngày 28/12/2017 Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố Phạm Ngọc T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1, điều 194, Bộ luật hình sự. Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố nêu trên và áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, Điều 46 ; Điều 33 - Bộ luật hình sự; Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị xử phạt Phạm Ngọc T từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù. Vật chứng thu giữ của vụ án: Methamphetamine cần tịch thu tiêu huỷ.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng và Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy. Bị cáo thấy mình có tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo hiện đang nuôi 2 con nhỏ để giảm nhẹ hình phạtcho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đã đƣợc thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:

Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụngkhác trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều khoản áp dụng:

Căn cứ lời khai của bị cáo thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp biên bản phạm tội quả tang, báo cáo bắt giữ, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được của vụ án. Đồng thời căn cứ vào các bản kết luận giám định số định số 6460 ngày 22/11/2017, của phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hà Nội. Đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 8h55’ ngày 12/10/2017, tại số 06 ngõ 43/99/15 phố T, phường T, quận C, Hà Nội, Phạm Ngọc T có hành vi tàng trữ trái phép 16,842 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm đối với xã hội bởi lẽ đó trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, xâm hại đến sức khỏe và sự phát triển của loài người. Vì vậy, hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc. Bị cáo đã nhận thức được tác hại nguy hiểm của ma túy, tuy nhiên bị cáo vẫn coi thường pháp luật và cố tình thực hiện hành vi phạm tội.

Hành vi của bị cáo là cố ý và thuộc trường hợp nghiêm trọng. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải có một mức hình phạt tự nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một khoảng thời gian nhất định để trừng trị đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung đồng thời để bị cáo cai nghiện ma túy.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, hội đồng xét xử xem xét, thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự để áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46, Bộ luật hình sự năm 1999 giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có công việc ổn định nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6]Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ của vụ án là Methamphetamine cần tịch thu tiêu huỷ.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên !

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Ngọc T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

*Áp dụng: Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Áp dụng: Điểm p khoản 1, Điều 46 ; Điều 33; Bộ luật hình sự năm 1999 (nay là Điểm s khoản 1, Điều 51 ; Điều 38; Bộ luật hình sự năm 2015).

Xử phạt : Phạm Ngọc T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/10/2017.

* Áp dụng : Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của đối tượng Phạm Ngọc T và chữ ký của Giám định viên Lê Khắc N trên mép dán phong bì niêm phong. Theo Kết luận giám định số 6460/KLGĐ – PC54 ngày 22/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, bên trong 01 (một) phong bì niêm phong có chứa: Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon (thu giữ của Phạm Ngọc T) là ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng: 16,842 gam.

Số vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án Dân sự quận CầuGiấy, theo biên bản giao nhận vật chứng số 63 GN/THA-CA ngày 02/01/2018.

* Áp dụng: điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí.

- Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm .

- Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2018/HSST ngày 26/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về