Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 28/03/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA THÀNH - TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 09/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 28 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 745/2018/ST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị T Q, sinh năm 19xx; địa chỉ: Dxx/xC, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Tây Ninh – Vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Hồ M L, sinh năm 19xx; địa chỉ: Dxx/x, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Tây Ninh – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03 tháng 12 năm 2018, lời trình bày trong hồ sơ vụ án nguyên đơn chị Trần Thị T Q trình bày:

Chị và anh L tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn vào năm 2010 tại UBND xã T, huyện T. Hôn nhân là do tự nguyện, có tổ chức lễ cưới.

Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau và anh L cờ bạc gây nợ nần, cuộc sống chung không còn hạnh phúc. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Hiện tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh L.

Vợ chồng chung sống có 02 người con chung tên Hồ Thị T T, sinh ngày xx/xx/xxxx và Hồ M M, sinh ngày xx/xx/xxxx, hiện cả 02 con chung đang sống cùng với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi cả 02 con chung và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Không có ai nợ lại hai vợ chồng.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh phát biểu: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán; Hội đồng xét xử; Thư ký Tòa án đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Hồ M L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, chị Q có đơn xin xét xử vắng mặt nên tiến hành xét xử vắng mặt chị Q và anh L là đúng theo quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa cho thấy, chị Q và anh L tự nguyện chung sống từ năm 2010, có đăng ký kết hôn và tổ chức lễ cưới. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn, do vợ chồng bất đồng quan điểm thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau và chị trình bày anh L cờ bạc gây nợ nần. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu ly hôn với anh L. Căn cứ theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Q.

Về con chung có Hồ Thị T T, sinh ngày xx/xx/xxxx và Hồ M M, sinh ngày xx/xx/xxxx, hiện cháu T và cháu M đang sống cùng với chị Q và cháu T có nguyện vọng sống cùng với chị Q nên giao cháu T và cháu M cho chị Q nuôi dưỡng là hợp lý.

Về tài sản chung và nợ chung chị Q không yêu cầu giải quyết. Tính án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Hồ M L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến tham dự phiên tòa, chị Q có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vắng mặt chị Q và anh L là có căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T Q và anh Hồ M L chung sống vợ chồng với nhau từ năm 2010, hôn nhân là do tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Q cho rằng do vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do do vợ chồng bất đồng quan điểm thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau và chị trình bày anh L cờ bạc gây nợ nần, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, vợ chồng không còn sống chung từ cuối năm 2017 cho đến nay, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Q yêu cầu ly hôn với anh L. Qua xác minh mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị là trầm trọng, anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến tham dự phiên tòa cho thấy anh L không có thiện chí hàn gắn nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Q.

[3] Về con chung: Có 02 người tên Hồ Thị T T, sinh ngày xx/xx/xxxx và Hồ M M, sinh ngày xx/xx/xxxx. Hiện cháu T và cháu M đang sống ổn định cùng với chị Q, cháu T có nguyện vọng sống cùng chị Q nên xem xét cho chị Q được tiếp tục nuôi dưỡng cháu T và cháu M là hợp lý. Ghi nhận chị Q không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ghi nhận.

[5] Chị Q phải chịu án phí theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

[6] Xét đề nghị của Viện kiểm sát là hợp lý nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56, 81, 82 của Luật hôn nhân và gia đình, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 tuyên xử;

1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị T Q đối với anh Hồ M L.

Về con chung: Giao cháu Hồ Thị T T, sinh ngày xx/xx/xxxx và cháu Hồ M M, sinh ngày xx/xx/xxxx cho chị Q tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ghi nhận chị Q không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Q phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Q đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0012633 ngày 03 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Ghi nhận chị Q đã nộp xong tiền án phí.

Án sơ thẩm xử công khai, báo cho chị Q, anh L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HNGĐ-ST ngày 28/03/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:09/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về