Bản án 09/2019/HS-ST ngày 03/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 03/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 169/2018/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 12 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Lường Thị M; tên gọi khác: Không; Sinh năm 1970 tại Mai S, Sơn La; Nơi cư trú: Xóm M1, xã CC, huyện MC, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Lường Quang X và con bà Hà Thị K (đều đã chết), bị cáo có chồng là Hà Văn H (đã chết) và 03 người con (con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 2013); tiền án; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 02/3/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Hà Công S; tên gọi khác: Không; Sinh năm 1997 tại MC, Hòa Bình; Nơi cư trú: Xóm B, xã P, huyện MC, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Hà Công Ng và con bà Ngần Thị B, bị cáo chưa có vợ con; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 02/3/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S: Ông Đàm Mạnh Hùng - Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 50 phút, ngày 02/3/2018, Tổ công tác Công an huyện VH, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực đường Quốc lộ 6 thuộc địa phận bản C1, xã L, huyện VH, tỉnh Sơn La phát hiện, bắt quả tang Lường Thị M, Hà Công S, Khà Văn A (đều trú tại huyện MC, tỉnh Hòa Bình) đang có tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lường Thị M, Hà Công S, Khà Văn A. Vật chứng thu giữ như sau:

Thu giữ của Lường Thị M: 09 gói nilon bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi là Heroine) và 01 gói nilon màu đen bên trong chứa 01 gói nhỏ chất bột màu trắng, 02 viên nén màu hồng (nghi là Heroine, Methamphetamine); tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành: 2.000.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, 01 túi xách;

Thu giữ của Hà Công S: 02 điện thoại di động, trong đó 01 điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG và 01 điện thoại nhãn hiệu NOKIA, tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành: 500.000 đồng.

Thu giữ của Khà Văn A: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SONY, tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành: 500.000 đồng.

Cùng ngày, tiến hành kiểm tra người Lường Thị M phát hiện và thu giữ trong quần tất của M đang mặc 03 gói chất bột màu trắng (nghi là Heroine), 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 154 viên nén màu hồng (nghi là Methamphetamine).

Ngày 03/3/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện VH thành lập Hội đồng mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định:

Số vật chứng thu giữ của Lường Thị M khi bắt quả tang: 10 gói nhỏ chất bột màu trắng có tổng khối lượng 338,58 gam, trích 10 mẫu (mỗi gói một mẫu) có tổng khối lượng là 0,93 gam ký hiệu M, M2, M4, M6, M8, M10, M12, M14, M16, M18 làm mẫu trưng cầu giám định. 02 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,19 gam trích 01 viên có khối lượng 0,10 gam ký hiệu M20 làm mẫu trưng cầu giám định.

Số vật chứng thu giữ khi khám người Lường Thị M: 03 gói chất bột màu trắng có tổng khối lượng 103,3 gam, trích 03 mẫu (mỗi gói một mẫu) có tổng khối lượng 0,33 gam ký hiệu M22, M24, M26 làm mẫu trưng cầu giám định. 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa 154 viên nén màu hồng có khối lượng 14,61 gam, trích 05 viên có khối lượng 0,49 gam ký hiệu M28 làm mẫu trưng cầu giám định.

Tại Kết luận giám định số 345 ngày 08/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

“Mu gửi giám định ký hiệu M, M2, M4, M6, M8, M10, M12, M14, M16, M18, M22, M24, M26 đều là chất ma túy; Loại chất Heroine, tổng khối lượng mu gửi giám định là 1,26 gam.

Mu gửi giám định ký hiệu M20, M28 đều là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine, tng khối lượng mu gửi giám đnh là 0,59 gam.

Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 441,88 gam; Loại chất Heroine và 14,8 gam, loại cht Methamphetamine”.

Quá trình điều tra các bị cáo Lường Thị M, Hà Công s khai nhận:

Khoảng ngày 28/02/2018, M đang ở nhà tại MC, Hòa Bình thì có một người phụ nữ tên Kỳ (người quen của M ở Hà Nội) gọi điện hỏi mua 01 bánh Heroine, M đồng ý. M và Kỳ thỏa thuận giá mua bán là 15.000.000 đồng/ 01 cây. Khoảng 21 giờ ngày 01/03/2018, M gọi điện cho Sồng A T ở bản CT, xã L, huyện VH đặt vấn đề mua ma túy, T đồng ý. Sau đó M rủ S (lúc này S đang ở nhà M) cùng lên bản CT mua ma túy mang đi Hà Nội bán, S đồng ý. Khoảng 02 giờ cùng ngày, M mang theo 70.000.000 đồng cùng S đi xe khách từ MC, Hòa Bình lên Sơn La. Trên đường đi M gọi điện cho Khà Văn A (cháu họ) lên nhà T cầm hộ tiền về đóng học cho con gái M (trước đó A đã từng lên nhà T chơi ngày tết dân tộc Mông). Khi lên đến nhà T, M và S được T cho 05 viên Hồng phiến để sử dụng, S ngồi ngoài bàn uống nước sử dụng hết 1,5 viên hồng phiến còn M vào buồng ngủ nhà T thỏa thuận mua bán ma túy. M hỏi mua của T 01 bánh Heroine và đưa cho T 70.000.000 đồng, T nói chưa đủ tiền, M đưa cho T thêm 01 cây vàng (01 lắc tay, 01 dây chuyền vàng). T cầm tiền và vàng ra khỏi nhà, khoảng 01 tiếng sau thì quay về, đưa cho M 10 gói Heroine và nói đó là 12 cây Heroine, đồng thời đưa cho M thêm một ít Heroine để sử dụng. Mua được Heroine, M tiếp tục hỏi mua nợ 01 túi Hồng phiến, T đi ra ngoài, một lúc sau quay lại đưa cho M một túi nilon bên trong có chứa 154 viên Hồng phiến và nói M thiếu nợ 26.000.000 đồng. M hẹn khi nào bán được ma túy sẽ trả sau. Mua bán xong ma túy, chưa thấy Khà Văn A đến, M tiếp tục gọi điện cho A giục lên. Khoảng 01 tiếng sau, A lên đến nhà T và cùng M, S sử dụng số ma túy được T cho trước đó. Sử dụng xong ma túy, còn lại 02 viên Hồng phiến và một ít Heroine, M gói lại cất vào túi xách của M. Cả ba người M, S, A ngủ lại qua đêm tại nhà T. Đến trưa ngày 02/3/2018, M lấy toàn bộ số ma túy đang có cất vào trong túi xách và quần tất Mậu đang mặc (A không hề hay biết việc này). M lấy 500.000 đồng đưa cho A và bảo A mang về MC, Hòa Bình đóng tiền học cho con gái M. Sau đó cả ba người đi ra Quốc lộ 6 thuộc khu vực bản C1, xã L, huyện VH để M, S bắt xe khách đi Hà Nội còn A quay về MC, Hòa Bình. Khi đang đợi xe thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Ngoài lần mua bán trên, Lường Thị M còn khai nhận: trước đó ngày 25/01/2018, M mua của T khoảng 01 cây Heroine giá 12.000.000 đồng, việc mua bán chỉ có M, T biết. Sau đó M cùng S mang xuống Hà Nội bán cho một người phụ nữ tên Kỳ với giá 15.000.000 đồng. Do T đang bỏ trốn, ngoài lời khai của M, không còn căn cứ nào khác nên chỉ xem đây là một tình tiết trong vụ án.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án, M và S khai mua của sồng A T (trú tại: CT, L, VH, Sơn La). Ngày 27/8/2018, Cơ quan điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Sơn La đã ra quyết định khởi tố bị can, ra lệnh bắt bị can nhưng T không có mặt tại địa phương. Do vậy, ngày 26/10/2018, Cơ quan điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Sơn La đã ra quyết định tách vụ án hình sự và truy nã đối với Sồng A T, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Đối với Khà Văn A, quá trình điều tra xác định, A được M gọi lên nhà T để lấy tiền về đóng học cho con gái M. Khi A đến nhà T thì việc mua bán ma túy giữa M và T đã diễn ra trước đó, A không biết, không tham gia (phù hợp với lời khai của M, S). Ngày 05/3/2018, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện VH đã ra Quyết định trả tự do, ngày 26/10/2018, đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Khà Văn A về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại cáo trạng số: 125/VKS-P1 ngày 23/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với hai bị cáo như cáo trạng và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Lường Thị M, Hà Công S phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Lường Thị M tù chung thân.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Hà Công S 20 năm tù.

Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày 02/3/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Lường Thị M, Hà Công S:

Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh và Điều luật áp dụng. Đề nghị hội đồng xét xử xem xét:

Các bị cáo thiếu hiểu biết về pháp luật, hám lợi nhất thời. Bị cáo M hoàn cảnh khó khăn, con nhỏ, chồng mất. Bị cáo từng đi bộ đội, quá trình điều tra và xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo. Bị cáo có bố, mẹ đẻ được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì, anh trai là liệt sĩ. Bị cáo S hoàn cảnh khó khăn, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội với vai trò đồng phạm.

Đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lường Thị M 20 năm tù. Áp dụng s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hà Công S từ 16 - 18 năm tù.

Các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S thừa nhận hành vi phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an huyện VH, Cơ quan điều tra Công tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VH, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S: Ngày 02/3/2018, tại bản C1, xã L, huyện VH, tỉnh Sơn La, Lường Thị M, Hà Công S khi đang tàng trữ trái phép 441,88 gam Heroine và 14,8 gam Methamphetamine với mục đích đem bán kiếm lời thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 00 phút ngày 02/3/2018 đối với Lường Thị M, Hà Công S, Khà Văn A về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy cùng vật chứng thu giữ (M, S là Heroine và Methamphetamine).

Kết luận giám định số 345 ngày 08/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

“Mu gửi giám định ký hiệu M, M2, M4, M6, M8, M10, M12, M14, M16, M18, M22, M24, M26 đều là chất ma túy; Loại cht Heroine, tổng khối lượng mu gửi giám định là 1,26 gam.

Mu gửi giám định ký hiệu M20, M28 đều là chất ma túy; Loại cht Methamphetamine, tổng khối lượng mẫu gửi giám định là 0,59 gam.

Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 441,88 gam; Loại cht Heroine và 14,8 gam, loại chất Methamphetamine”.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án thể hiện việc các bị cáo đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy với một người đàn ông dân tộc Mông tên là Sồng A T ở bản CT, xã Lóng Luông, huyện VH, Sơn La. Khi trên đường mang ma túy đón xe khách đi Hà Nội bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt quả tang.

Từ các căn cứ như đã nêu trên có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.

[3] Khung hình phạt áp dụng: Các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S đã có hành vi mua bán trái phép 441,88 gam Heroine và 14,8 gam Methamphetamine (tổng cộng khối lượng 02 chất ma túy: 456,68 gam), theo quy định tại khoản 5 Điều 5 chương II Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ về quy định việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì hành vi của các bị cáo đã vi phạm điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc th tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này”, có khung hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Ngoài hình phạt chính, các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015. Song xét hoàn cảnh các bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[4] Vai trò của các bị cáo trong vụ án: Bị cáo Lường Thị M sau khi được người phụ nữ tên Kỳ hỏi mua ma túy, M đã chủ động liên lạc tìm nguồn mua ma túy, rủ rê, lôi kéo Hà Công S cùng thực hiện hành vi phạm tội; trực tiếp là người trao đổi, thỏa thuận, nhận ma túy, giấu ma túy, mang ma túy đi bán, giữ vai trò chính trong vụ án.

Bị cáo Hà Công S tiếp nhận ý chí của Lường Thị M, cùng với M đi mua ma túy nhưng không tham gia trực tiếp vào việc mua bán mà chỉ đi cùng nhằm mục đích hưởng lợi, giữ vai trò đồng phạm giúp sức trong vụ án.

[5] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, các bị cáo mua bán ma túy với số lượng lớn (441,88 gam Heroine và 14,8 gam Methamphetamine (tổng cộng khối lượng chất ma túy là 456,68 gam), gây nguy hại lớn cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, tiền chất ma túy. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc đối với các bị cáo mới đảm bảo được tính răn đe và phòng ngừa chung.

[6] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Lường Thị M có bố, mẹ đẻ là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng huân huy chương kháng chiến và có anh trai là liệt sỹ, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Hà Công S giữ vai trò đồng phạm trong vụ án nên được áp dụng quy định tại Điều 58 Bộ luật hình sự.

[7] Đối với các đối tượng khác trong vụ án: Đối với Khà Văn A, quá trình điều tra xác định A không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của Lường Thị M, Hà Công S. A chỉ lên lấy tiền về đóng học cho con gái M và được cho ma túy để sử dụng. Việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện VH ra quyết định trả tự do và quyết định xử phạt hành chính đối với Khà Văn A về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật.

[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với 440,62 gam Heroine và 14,21 gam Methamphetamine còn lại sau khi đã giám định, xét đây là loại hàng Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với ba chiếc phong bì niêm phong ban đầu, một chiếc túi xách bằng da màu đen, có hai quai đeo màu đen, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng, đen thu giữ của Lường Thị M, một chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia vỏ màu trắng, một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu đen thu giữ của Hà Công S trong vụ án, xét không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S.

Đối với số tiền 3.000.000 đồng thu giữ trong vụ án (trong đó thu giữ của Lường Thị M 2.000.000 đồng, thu giữ của Hà Công S 500.000 đồng, thu giữ của Khà Văn A 500.000 đồng - là tiền của Lường Thị Mậu đưa cho Khà Văn A nộp tiền học phí cho con của M. Có căn cứ xác định 2.500.000 đồng là tiền của Lường Thị M), 500.000 đồng là tiền của Hà Công S không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[9] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Lường Thị M, Hà Công S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015:

- Tuyên bố bị cáo Lường Thị M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Lường Thị M tù chung thân. Thời hạn tù của bị cáo Lường Thị M tính từ ngày 02/3/2018.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, 58 Bộ luật hình sự 2015:

- Tuyên bố bị cáo Hà Công S phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Hà Công S 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo Hà Công S tính từ ngày 02/3/2018.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 440,62 gam Heroine và 14,21 gam Methamphetamine còn lại sau khi đã giám định cùng vỏ gói niêm phong ban đầu được đựng trong một chiếc phong bì do Công an huyện VH phát hành còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì có ghi: “Vật chứng ký hiệu M1, M3, M5, M7, M9, M11, M13, M15, M17, M19, M21, M23, M25, M27, M29. Tổng khối lượng 454,83 gam + vỏ gói niêm phong ban đầu vụ Lường Thị M cùng đồng phạm; có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 02/3/2018”. Mặt sau phong bì tại mép giáp lai có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có ghi dòng chữ: “Cơ quan CSĐT - Công an huyện VH, tỉnh Sơn La, giấy niêm phong, ngày 02 tháng 03 năm 2018, 01 hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT - Công an huyện VH, tỉnh Sơn La, chữ ký, dòng ghi họ tên của Nguyễn Sỹ Thạch, Đinh Đức Thỏa, Tráng A Trư, Phạm Trung Kiên, Lường Thị M, Hà Công S, Khà Văn A”.

- Tịch thu tiêu hủy: 03 (Ba) chiếc vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 (Một) chiếc túi xách bằng da màu đen, có hai quai đeo màu đen, đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Lường Thị Mậu: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng, đen thu giữ của Lường Thị M trong vụ án, được đựng trong một chiếc phong bì do Phòng CSĐTTP về ma túy - Công an tỉnh Sơn La phát hành còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì có ghi: “Vật chứng điện thoại di động nhãn hiệu Samsung + vỏ gói niêm phong ban đầu thu giữ của Lường Thị M, sinh năm 1970; HKTT: Xóm Mỏ, xã CC, huyện MC, tình Hòa Bình, bắt ngày 2/3/2018, về tội mua bán trái phép chất ma túy”, mặt sau phong bì tại mép giáp lai có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có ghi dòng chữ: Cơ quan CSĐT (PC47) - Công an tỉnh Sơn La, giấy niêm phong ngày 24/4/2018, 01 hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Sơn La, chữ ký, dòng ghi họ tên của Phạm Minh Đức, Lường Thị M.

- Trả lại cho bị cáo Hà Công S: 02 chiếc điện thoại di động, trong đó: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, vỏ màu đen, 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ màu trắng thu giữ của Hà Công S trong vụ án, được đựng trong một chiếc phong bì do Công an huyện VH, tỉnh Sơn La phát hành còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì có ghi: “Vật chứng gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung vỏ màu đen số IMEI 1: 353317095137353; số IMEI 2: 353318095137351 + một sim số thuê bao 01254125197 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ màu trắng số IMEI 35600586002085 + 01 sim có số thuê bao 01658928328 + vỏ gói niêm phong ban đầu thu giữ của Hà Công S, sinh năm 1997, nơi cư trú: Xóm Bin, xã Pù Bin, huyện MC, tỉnh Hòa Bình; có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 02/3/2018”. Mặt sau phong bì tại mép giáp lai có dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có ghi dòng chữ: Cơ quan CSĐT Công an huyện VH, tỉnh Sơn La, giấy niêm phong ngày 02/3/2018, 01 hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT - Công an huyện VH, tỉnh Sơn La, chữ ký, dòng ghi họ tên của Đinh Đức Thỏa, Đỗ Đình Tuấn.

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: 3.000.000đ (Ba triệu đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành thu giữ trong vụ án, trong đó:

+ 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) của Lường Thị M (gồm 2.000.000 đồng thu giữ trên người Lường Thị M và 500.000 đồng thu giữ trên người Khà Văn A)

+ 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) của Hà Công S.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Lường Thị M, Hà Công S mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 03/01/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HS-ST ngày 03/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về