Bản án 09/2019/HSST ngày 29/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 09/2019/HSST NGÀY 29/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 09/2019/HSST, ngày 24 tháng 4 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXXST – HS ngày 16 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Lường Văn T. Tên gọi khác: Không, sinh năm: 1953. Tại: huyện M, tỉnh Điện Biên; ĐKHKTT: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Cư trú tại: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không; Dân tộc: Thái; con ông: Lường Văn L, sinh năm 1920 và bà Lường Thị L1, sinh năm 1918; Bị cáo có vợ: Lò Thị I, sinh năm 1955 và 07 người con, lớn nhất sinh năm 1971 đã chết, nhỏ nhất sinh năm 1991; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; tạm giam giữ từ ngày 18/01/2019 cho đến ngày xét xử; Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lò Thị Khánh H – Trợ giúp viên pháp lý. Nơi công tác: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì hành vi phạm tội của Lường Văn T được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 00 phút ngày 18 tháng 01 năm 2019, tại nhà ở của mình thuộc Bản N, xã M, huyện M, Lường Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tại Cơ quan điều tra, Lường Văn T khai nhận: Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 15/01/2019 T một mình đi bộ từ nhà lên bản C, xã X, huyện M để tìm mua heroine về sử dụng, khi đến khu vực giáp ranh giữa Bản N, xã M, huyện M và bản C, xã X thì T gặp một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 40 tuổi mà Lường Văn T không biết tên, địa chỉ ở đâu, T mua được 01 cục heroine gói bằng túi ni lông màu hồng với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), mục đích về sử dụng. Sau khi mua được heroine cho vào túi áo khoác bên trái đang mặc rồi đi về nhà không nói cho ai biết, còn người đàn ông đó đi đâu thì T không biết. Về đến nhà T dùng dao lam cắt ra một ít heroine sử dụng bằng hình thức đốt hít, số còn lại T chia thành 04 gói nhỏ rồi dùng các mảnh túi ni lông màu hồng gói lại và cho tất cả vào trong 01 lọ nhựa màu trắng rồi cất giấu ở phía sau hòm thóc của gia đình để sử dụng dần. Đến khoảng 10h ngày 18/01/2019 thì Tổ công tác Công an Đồn Búng lao huyện Mường Ảng vào nhà kiểm tra, T đã lấy 04 gói heroin đựng trong lọ nhựa màu trắng ở phía sau hòm thóc được gói bằng các mảnh nilon màu hồng có khối lượng là 0,16 gam ra giao nộp cho Tổ công tác.

Tại biên bản niêm phong vật chứng hồi 11 giờ 20 phút ngày 18/01/2019 thì vật chứng thu giữ của Lường Văn T là 04 gói chất bột màu trắng được gói trong mảnh giấy ni lông màu hồng là Heroine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng hồi 17 giờ 00 ngày 18/01/2019 thì 04 gói Heroine có khối lượng là: 0,16 gam.

Tại bản kết luận giám định số 238/GĐ – PC 09, ngày 26/01/2019 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận: 0,16 gam là Heroine: Loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy có số thứ tự: 09, mục IA, danh mục I, Nghị định 73/2019/NĐ-CP ngày 15/5/2019. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Cáo trạng số: 08/CT - VKSMA, ngày 23/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố bị cáo Lường Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Lường Văn T từ 13 tháng đến 15 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 của BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,11g Heroine, là vật chứng còn lại của vụ án.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo sống ở xã có điều kiện đặc biệt khó khăn, thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí đề nghị miễn án phí HSST cho bị cáo Lường Văn T.

 Nội dung bản luận cứ của người bào chữa cho bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS, đề nghị Hội đồng xét xử khi quyết định hình phạt xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo quy định của pháp luật.

Về án phí gia đình bị cáo Lường Văn T là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí. Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo T nhất trí nội dung bản luận cứ của người bào chữa.

Lời nói sau cùng, Lường Văn T nhận phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1]. Nội dung vụ án:

Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa bị cáo Lường Văn T công nhận: Hồi 10 giờ ngày 18 tháng 01 năm 2019, tại nhà ở của mình thuộc Bản N, xã M, huyện M, Lường Văn T đã tàng trữ 0,16 gam heroin mục đích để sử dụng.

Trong quá trình điều tra bị cáo khai mua 01 cục heroine gói bằng túi ni lông màu hồng với giá 600.000đ ( sáu trăm nghìn đồng) do lúc đầu bị cáo nhớ nhầm vì bị cáo trong túi có 600.000đ bị cáo chỉ mua hết 300.000đ, còn 300.000đ bị cáo mang về chi tiêu sinh hoạt trong gia đình.

Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với biên bản xác định khối lượng ngày 18/01/2019 và kết luận giám định số 238/GĐ – PC 09, ngày 26/01/2019của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 0,16 gam là Heroine, cũng như biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10 giờ 30 phút ngày 18/01/2019 đối với Lường Văn T.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lường Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [2]. Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3]. Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện M, tỉnh Điện Biên, không được đi học. Đến năm 1971 kết hôn với chị Lò Thị I và có với nhau 07 người con. Bị cáo là một người chồng, người cha, người ông trụ cột trong gia đình nhưng do thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy nên có nhân thân không tốt; Bởi vậy Hội đồng xét xử cần đưa ra mức án thật nghiêm khắc, để cải tạo giáo dục bị cáo và cũng là cơ hội để bị cáo cai nghiện ma túy; tuy nhiên, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống, xã hội một thời gian để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, sau này trở thành công dân có ích cho xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại điều 52 BLHS.

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ ở đâu vào ngày 15/01/2019. Quá trình điều tra không có cơ sở để làm rõ đối tượng nên HĐXX không đặt vấn đề xem xét.

Về chiếc lọ nhựa để đựng heroine bị cáo khai trong quá trình thu giữ vật chứng cơ quan điều tra không thu giữ nên không có cơ sở xem xét.

Về bản bào chữa của người bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp nên cần xem xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249 của BLHS. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nguồn thu nhập chính nhờ làm ruộng nên không có khả năng thi hành. Cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 của BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,16 gam Heroine (đã trích mẫu gửi giám định 0,5 gam không hoàn mẫu sau giám định).

[7]. Về án phí: Bị cáo Lường Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nhưng bị cáo sống ở xã đặc biệt khó khăn, thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí nên miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên:

 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn T phạm tội: " Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Lường Văn T 14 ( mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18 tháng 01 năm 2019.

2. Vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 của BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,11g (không phẩy mười một gam) Heroine, là vật chứng còn lại của vụ án. (Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/4/2019).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lường Văn T.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 29/5/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2019/HSST ngày 29/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về