Bản án 100/2018/HSST ngày 15/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 100/2018/HSST NGÀY 15/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 97/2018/HSST ngày 13 tháng 7 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/QĐ-HSST ngày 01 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: TRẦN ĐỨC Q. Sinh ngày 09 tháng 02 năm 1995. Nơi sinh: Nghệ An. Nơi ĐKNKTT: Xóm 3, xã Đ, huyện Đ, Nghệ An. Chỗ ở: Lang thang, không có nơi cư trú nhất định. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Con ông: Trần Đức H, sinh năm 1956; Con bà: Trần Thị O, sinh năm 1960. Hiện ở tại: Xóm 3, xã Đ, huyện Đ, Nghệ An. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt ngày 28/3/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, Lâm Đổng. Có mặt.

Người bị hại : Chị Đỗ Khánh L, sinh năm 1997. Hộ khẩu thường trú tại: 3A – Đ, Phường 3, thành phố Đ, Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 7/2017 Trần Đức Q từ Nghệ An vào thành phố Đ, Lâm Đồng tìm việc làm, đến tháng 01/2018 được nhận vào làm tại Công ty bảo vệ Sài Gòn - Đà Lạt và được phân công làm bảo vệ tại quán cà phê Thiên Mộc Trinh ở số 4 - Đ, Phường 3, thành phố Đ, Lâm Đồng. Quân làm bảo vệ tại đây đến tháng 3/2018 thì nghỉ việc, sồng lang thang. Do không có tiền tiêu xài, Q đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản tại quán cà phê Thiên Mộc Trinh và đã 02 lần thực hiện trót lọt việc trộm cắp tài sản tại quán này, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 03 giờ 30 ngày 14/3/2018, Q đi bộ đến quán cà phê Thiên Mộc Trinh để trộm cắp tài sản. Do Q đã quen thuộc địa hình của quán và biết trước cửa sổ tầng 2 của quán bị hư chốt nên cửa này không khóa. Q đi theo đường cầu thang bên hông quán, lên tầng 2 của quán, trèo qua cửa sổ bị hư chốt, không khóa, đột nhập vào bên trong, lấy trộm được 01 máy tính bảng hiệu Lenovo Tab 3,7” màu đen viền xanh tại quầy lễ tân tầng hai và 01 heo đất, bên trong có 1.000.000 đồng tại quầy lễ tân tầng một, sau đó tẩu thoát. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Q bán máy tính bảng trộm cắp được cho anh Lê Công C, là chủ cửa hàng điện thoại Trần Lê Mobile ở 11/E 21 - N, Phường 9, thành phố Đ, Lâm Đồng được 500.000 đồng. Sau khi mua máy, anh C đã bán lại cho khách (không biết nhân thân, lai lịch) được 900.000 đồng. Toàn bộ số tiền 1.500.000 đồng Q đã tiêu xài hết. Quá trình điều tra

Cơ quan điều tra không thu hồi được tài sản.

Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Đ, Lâm Đồng xác định giá trị chiếc máy tính bảng của chị Đỗ Khánh L bị mất là 2.041.000 đồng. Tổng giá trị tài sản trong lần trộm cắp này là 3.041.000 đồng.

Lần thứ hai: Khoảng 03 giờ 30 ngày 21/3/2018, Q đi bộ tới quán cà phê Thiên Mộc Trinh để trộm cắp tài sản. Với cách thức, thủ đoạn như lần trước, Q đột nhập vào bên trong quán cà phê Thiên Mộc Trinh, lấy trộm một máy tính bảng hiệu Lenovo Tab 3,7” màu đen viền xanh tại quầy lễ tân tầng hai và 500.000 đồng tại quầy lễ tân tầng một.

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ, Lâm Đồng xác định giá trị chiếc máy tính bảng của chị Đỗ Khánh L bị mất là 1.971.000 đồng. Tổng giá trị tài sản trong lần trộm cắp này là 2.471.000 đồng. Cơ quan điều tra đã thu hồi máy tính và trả lại cho chị L.

Chị Đỗ Khánh L không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tài sản không thu hồi được.

Đến khoảng 03 giờ 30 ngày 26/3/2018, Q tiếp tục đi bộ tới quán cà phê Thiên Mộc Trinh để trộm cắp tài sản nhưng khi Q vào trong quán, chưa lấy được gì thì bị bảo vệ của quán phát hiện, bắt giữ giao cho Công an Phường 3, thành phố Đ xử lỳ.

Tại Cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 12/7/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố Trần Đức Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Đức Q khai nhận vào ngày 14/3/2018 và 21/3/2018, bị cáo đã có hành vi lợi dụng sơ hở của người bị hại để lén lút đột nhập vào bên trong quán cà phê, chiếm đoạt tài sản là 02 máy tính bảng hiệu Ienovo Tab 3 và 1.500.000 đồng tiền mặt. Tổng trị giá tài sản của hai lần trộm cắp là 5.512.000 đồng với mục đích để bán lấy tiền sử dụng cho nhu cầu cá nhân với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Trần Đức Q đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản của người khác, chiếm đoạt số tài sản trị giá 5.512.000 đồng nên hành vi của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Đức Q từ 09 đến 12 tháng tù. Phần bồi thường:

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu hồi tài sản và trả lại cho người bị hại là chị Đỗ Khánh L 01 máy tính bảng, số tài sản còn lại quá trình điều tra chị L không yêu cầu bị cáo bồi thường, tại phiên tòa người bị hại vắng mặt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét. Về vật chứng của vụ án, đối với chiếc máy tính bảng thu giữ được, đã được Cơ quan điều tra xử lý trả lại cho chủ sở hữu nên không đề cập. Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng:

Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo Trần Đức Q:

Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc lợi dụng người bị hại sơ hở, cửa bị hỏng chốt, không khóa được vào ban đêm nhưng không có sự sửa chữa kịp thời, đã lén lút đột nhập vào quán chiếm đoạt tài sản với mục đích bán lầy tiền để sử dụng cho nhu cầu cá nhân là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo 02 lần chiếm đoạt tài sản với tổng trị giá 5.512.000 đồng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trái pháp luật đến quyền sở hữu tài sản của người khác và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Đức Q đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm của bị cáo được qui định tại điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 như kết luận của Kiểm sát viên và Cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm vào tình tiết định khung tăng nặng nào theo qui định tại điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội 03 lần, trong đó có 02 lần đã chiếm đoạt được tài sản, trị giá tài sản mỗi lần chiếm đoạt trên 2.000.000 đồng, vì vậy bị cáo có tình tiết tăng nặng là phạm tội 02 lần trở lên theo qui định tại điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Sau khi bị phát hiện, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tài sản đã được thu hồi một phần và bố của bị cáo là thương binh hạng 4/4. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt qui định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản bị bị cáo chiếm đoạt, Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho người bị hại một phần, tại phiên tòa, chị Đỗ Khánh L vắng mặt và không có yêu cầu bồi thường thêm đối với số tài sản không thu giữ được nên không xem xét để giải quyết phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo đối với chị L trong bản án này.

Về xử lý vật chứng:

Vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm: Một máy tính bảng hiệu Lenovo Tab 3,7”, là tài sản bị cáo chiếm đoạt của người bị hại Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu nên không xem xét để xử lý tiếp.

Về án phí:

Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] . Tuyên bố bị cáo Trần Đức Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] . Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51 và điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Đức Q 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/3/2018.

[3] . Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về lệ phí, án phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 100/2018/HSST ngày 15/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:100/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về