Bản án 101/2018/HS-ST ngày 05/11/2018 về tội mua bán trái phép chât ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 101/2018/HS-ST NGÀY 05/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHÂT MA TÚY

Ngày 05 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 101/2018/TLST- HS ngày 03 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo: Họ và tên: Quàng Văn S; tên gọi khác: Không; sinh ngày 02/5/1988 tại: Xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản L, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 8; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; họ và tên cha: Quàng Văn P, sinh năm 1962 (đã chết) và họ và tên mẹ: Quàng Thị L, sinh năm 1964; họ và tên vợ: Lò Thị S, sinh năm 1989 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền sự: Không, tiền án: Không; nhân thân: Chưa lần nào bị xử lý vi phạm hành chính, chưa lần nào bị Tòa án xét xử; bị bắt tạm giữ từ ngày 28/7/2018 đến ngày 30/7/2018; ngày 31/7/2018 bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (bị cáo bị tạm giữ 03 ngày). Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

* Người có nghĩa vụ liên quan:

Họ và tên: Quàng Văn K; sinh năm: 1985. Nơi cư trú: Bản L, xã C, huyện T,tỉnh Điện Biên. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 ngày 28/7/2017, bị cáo Quàng Văn S từ nhà bắt xe ôm đến bản N, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên để tìm mua Heroine. Khi đi đến đầu bản N, xã T, bị cáo xuống xe đi bộ vào bản thì gặp một người đàn ông đang đứng ở ven đường, qua trao đổi mua bán Heroine bị cáo đã mua của người đàn ông đó 01 gói Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Việc trao đổi mua bán Heroine giữa bị cáo và người đàn ông đó diễn ra tại ven đường thuộc bản N, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, chỉ có hai người biết với nhau, ngoài ra không có ai khác biết và tham gia cùng. Sau khi mua được Heroine, bị cáo bắt xe khách về nhà ở xã C, huyện T. Khoảng 11 giờ cùng ngày S đi vào nhà anh Quàng Văn K (anh rể của bị cáo) ở bản L, xã C, sau đó đi vào phòng ngủ của anh K lấy gói Heroine vừa mua được ra dùng móng tay cấu một ít để sử dụng bằng hình thức “hít”, sau khi sử dụng xong bị cáo dùng dao lam chia nhỏ gói Heroine ra thành 11 gói và cất giấu vào túi quần bên phải bị cáo đang mặc nhằm mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Nhưng chưa kịp bán cho ai thì đến khoảng 11 giờ 20 phút cùng ngày bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện thu giữ 11 gói Heroine; tạm giữ 01 điện thoại Sam Sung màu bạc đã qua sử dụng, 01 chứng minh nhân dân mang tên Quàng Văn S và số tiền 115.000đ (một trăm mười lăm nghìn đồng).

Tại bản kết luận giám định số: 733/GĐ-PC54 ngày 20/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn S gửi giám định là chất ma tuý: Loại Heroine. Khối lượng vật chứng thu giữ của Quàng Văn S là 0,67 gam”.

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo Quàng Văn S khai nhận: Bị cáo đã thực hiện hành vi mua 01 gói Heroine, với số tiền là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), về chia thành 11 gói nhỏ Heroine cất giấu trên người, nhằm mục đích đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Nhưng chưa kịp bán cho ai thì đến khoảng 11 giờ 20 phút cùng ngày bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện thu giữ 11 gói Heroine có khối lượng 0,67 gam.

Tại bản Cáo trạng số: 79/CT- VKS-TG ngày 03 tháng 10 năm 2018, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Quàng Văn S về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,56 gam Heroine vật chứng còn lại thu giữcủa bị cáo; đối với 01 điện thoại Sam Sung màu bạc đã qua sử dụng, 01 chứng minhnhân dân mang tên Quàng Văn S và số tiền 115.000đ (một trăm mười lăm nghìn đồng) không liên quan đến hành vi phạm tội đề nghị trả lại cho bị cáo.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

 [2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 28/7/2018 bị cáo Quàng Văn S mua 01 gói Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ tại: Bản N, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, về nhà anh rể chia thành 11 gói nhỏ Heroine nhằm mục đích sử dụng và bán cho người nghiện chất ma túy để kiếm lời. Nhưng bị cáo chưa kịp bán cho ai thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ 11 gói Heroine. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng Heroine là 0,67 gam đã bị thu giữ. Vì vậy Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Quàng Văn S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 [3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp tiếp tay cho những người chuyên mua bán các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

 [4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; vợ bị bệnh mắc bệnh tâm thần được cấp phát thuốc miễn phí hằng tháng, con thứ hai của bị cáo bị khuyết tật, mẹ già yếu; nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo là lao động chính trong gia đình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xem xét áp dụng hình phạt tù có thời hạn phù hợp đối với bị cáo, thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật.

 [5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm2017. Xét thấy điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và gia đìnhthuộc diện hộ nghèo. Thu nhập của bị cáo chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [6] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo từ 30 tháng đến 36 tháng tù và không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy là chưa phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên không chấp nhận.

 [7] Đối với người đàn ông bị cáo khai khai đã bán Heroine cho bị cáo; quá trình điều tra thấy, khi mua bán Heroine bị cáo không biết tên, địa chỉ của người đàn ông đó. Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Tuần Giáo không có căn cứ để điều tra làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Quàng Văn K, quá trình điều tra K không biết việc bị cáo mang Heroine đến nhà để sử dụng và chia nhỏ Heroine, Quàng Văn K không vi phạm pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [8] Vật chứng vụ án: Đối với 01 phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,56 gam Heroine vật chứng còn lại thu giữ của bị cáo cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại Sam Sung màu bạc đã qua sử dụng, 01 chứng minh nhân dân mang tên Quàng Văn S và số tiền 115.000đ (một trăm mười lăm nghìn đồng) không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

 [9] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện hộ nghèo và bị cáo đã có đơn xin miễn án phí; theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luậtHình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Quàng Văn S phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Quàng Văn S 24 (hai mươi bốn tháng) tháng tù, được khấu trừ thời hạn đã bị tạm giữ 03 (ba) ngày. Bị cáo còn phải chấp hành tiếp là23 (hai mươi ba) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấphành án phạt tù.

2. Căn cứ Điểm c Khoản 1, Khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2, và Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm2015.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,56 gam Heroine vật chứng còn lại thu giữ của bị cáo; trả lại cho bị cáo số tiền 115.000đ (một trăm mười lăm nghìn đồng), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu bạc đã qua sử dụng, 01 chứng minh nhân dân mang tên Quàng Văn S theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

3. Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về án phí: Miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (05/11/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2018/HS-ST ngày 05/11/2018 về tội mua bán trái phép chât ma túy

Số hiệu:101/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về