Bản án 101/2019/HS-PT ngày 21/08/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 101/2019/HS-PT NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 21 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 158/2019/TLPT-HS ngày 09 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Lê Văn T do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương đối với Bản án sơ thẩm số 98/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

- Bị cáo bị kháng nghị: Lê Văn T, sinh năm 1964. Nơi cư trú: Thôn K, xã B, huyện B, tỉnh Hải Dương. Nghề nghiệp: Lao động tự do: Trình độ văn hóa: 7/10. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lê Hồng K (ông K được nhà nước tặng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba và là thương binh hạng 4/4) và bà Nguyễn Thị Đ (đã chết) Có vợ là Nguyễn Thị L. Có 02 con, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1995.Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:

- Bản án số 14/HS-ST ngày 26/3/1993 của TAND huyện C, tỉnh H xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cưỡng đoạt tài sản công dân, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Ngày 31/7/2001 Công an huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt hành chính về hành vi vi phạm trật tự công cộng tại Quyết định số 46/QĐXPVPHC.

- Ngày 17/1/2012 Công an huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt hành chính về lĩnh vực an ninh, trật tự tại Quyết định số 21/QĐXP.

- Bản án số 02/HS-ST ngày 16/01/2014 của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 08 tháng tù về tội Đánh bạc. Đã nộp án phí ngày 27/10/2014, ra trại ngày 15/6/2014.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2019, tạm giam ngày 09/01/2019 tại Trại tạm giam Kim Chi Công an tỉnh Hải Dương (có mặt tại Phiên tòa).

Ngoài ra còn 02 bị cáo Nguyễn Thị P (Tên gọi khác: Nguyễn Thị Thu P) và bị cáo Trần Thị H3 có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tuy nhiên các bị cáo có đơn xin rút kháng cáo. Vì vậy, Tòa án đã đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo P và H tại Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 61/2019/HSPT-QĐ ngày 14 tháng 8 năm 2019.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thị L, sinh năm 1993. Địa chỉ: Số 308, N, phường T, TP. H, tỉnh Hải Dương. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Anh Phạm Xuân V, sinh năm 1976. Địa chỉ: xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

2. Anh Thân Mạnh H, sinh năm 1995. Địa chỉ: Tổ 6, khu 3, phường T, Thành phố B, tỉnh B. Vắng mặt.

3. Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1991. Địa chỉ: xã H, huyện Đ, tỉnh T. Vắng mặt.

4. Chị Đào Thị H2, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn T là chủ nhà nghỉ X ở số 240, xã B, phường T, TP. Hải Dương. Vào khoảng tháng 7/2018, Nguyễn Thị P (tên gọi khác: Nguyễn Thị Thu P) đến nhà nghỉ của T và tự giới thiệu tên là T, nhà ở phố T, TP. Hải Dương. P bảo T nếu khách nghỉ có nhu cầu mua dâm thì điện thoại cho P để liên lạc. T đồng ý. Trước đó, P có quen biết với Trần Thị H3, giữa P và H3 có thỏa thuận nếu có khách có nhu cầu mua dâm thì P gọi điện cho H3, H3 sẽ gọi gái bán dâm đến bán dâm cho khách, gái bán dâm sẽ trực tiếp thu của khách 300.000đ/1 lần/1 người (gái bán dâm sẽ được hưởng 200.000đ; Thu, P sẽ được hưởng 100.000đ).

Khong 14h30’ ngày 03/01/2019, Phạm Xuân V sinh năm 1976 ở xã T, huyện G, Hải Dương; Thân Mạnh H, sinh năm 1995 ở khu phố 3, phường T, TP. B rủ nhau vào nhà nghỉ X mục đích để mua dâm. Khi vào nhà nghỉ, H, V gặp T và bảo: “gọi cho cháu 2 nhân viên lên phòng”. T hiểu ý là gọi gái bán dâm nên T gọi điện thoại cho Nguyễn Thị P nói “gọi cho chú 2 nhân viên, có 2 khách nghỉ ở đây”, P đồng ý. Sau đó P gọi điện thoại cho Trần Thị H3 bảo H3: “Chị gọi em 2 đứa xuống nhà nghỉ X” ý P bảo H3 gọi gái bán dâm. H3 đồng ý. H3 sử dụng điện thoại gọi cho Nguyễn Thị H1, sinh năm 1991 ở Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên (tên tH2 gọi là Mai) bảo H1 đến nhà nghỉ X bán dâm cho khách. H1 đồng ý. Sau đó H3 gọi lại P bảo chỉ gọi được 1 người. P điện lại cho T thì T bảo “có 2 thằng 1 đứa thì làm thế nào”. P bảo “để cháu gọi tiếp”. Sau đó P điện thoại cho H3 bảo gọi thêm một gái bán dâm nữa, H3 đồng ý và gọi điện cho Đào Thị H2, sinh năm 1993 ở Chiềng Khoang, Sông Mã, Sơn La (tên tH2 gọi là Nhi), H3 bảo H2 đến nhà nghỉ X để đi khách, ý đi bán dâm, H2 đồng ý. H3 bảo H2, H1 thu của khách 300.000đ/1 người/1 lần rồi gọi điện lại cho P thông báo đã gọi 02 người đến nhà nghỉ X để bán dâm cho khách. Khi đến nhà nghi X, H1, H2 gặp T, T bảo H1 lên phòng 201, H2 lên phòng 202 và dặn thu của mỗi khách 300.000đ. Tại phòng nghỉ H đưa cho H1 500.000đ; V đưa cho H2 500.000đ là tiền mua dâm. Đến khoảng 15h30’ cùng ngày khi H2 và V, H và H1 đang quan hệ tình dục với nhau tại phòng 201, 202 của nhà nghỉ X thì tổ cảnh sát điều tra về TTXH Công an TP. Hải Dương phát hiện bắt quả tang.

Tại bản án sơ thẩm số 98/2019/HSST ngày 30 tháng 5 năm 2019, TAND Thành phố Hải Dương áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 327, khoản 2 Điều 35, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 của Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Chứa mại dâm”, xử phạt bị cáo T 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2019. Ngoài ra, cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với 02 bị cáo khác, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 11/6/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương kháng nghị phúc thẩm Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2019/HSST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương về phần hình phạt đối với bị cáo Lê Văn T về tội Chứa mại dâm; đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương áp dụng khoản 1 Điều 355, khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2019/HSST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương theo hướng áp dụng điểm d khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự tăng hình phạt tù đối với bị cáo Lê Văn T về tội Chứa mại dâm.

Tại Phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, Thành khẩn khai báo và đề nghị HĐXX xem xét giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tại Phiên tòa phát biểu ý kiến: Giữ nguyên nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của BLTTHS chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương sửa bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 5 năm 3 tháng đến 5 năm 6 tháng tù, thời hạn từ tính từ ngày 03/01/2019.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại Phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương trong thời hạn quy định nên kháng nghị đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại P toà H3 toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai những người làm chứng, vật chứng thu giữ và phù hợp với các tài liệu điều tra khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14h30’ ngày 03/01/2019, Lê Văn T đã có hành vi cho Nguyễn Thị H1 bán dâm cho anh Thân Mạnh H và Đào Thị H2 bán dâm cho Phạm Xuân V tại nhà nghỉ X ở số nhà 240 B, phường T, Thành phố H do bị cáo trực tiếp quản lý, kinh doanh, trông coi mục đích để thu lời bất chính thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo cấu T tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là có căn cứ pháp luật. Về tội danh không có kháng nghị nên HĐXX không xem xét.

[3] Xét kháng nghị của Viện trưởng VKSND Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, HĐXX nhận thấy: Tại điểm d khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự quy định về tình tiết định khung tăng nặng là “ chứa mại dâm 04 người trở lên”.

Theo từ điển tiếng Việt thì “mại” là “bán” và “mãi” là “mua” và chứa mại dâm là chứa bán dâm. Như vậy, tình tiết định khung tăng nặng “ chứa mại dâm từ 04 người trở lên” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự được hiểu là đối với người bán dâm. Căn cứ vào lời khai của bị cáo, người liên quan, người làm chứng cùng biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng thu được thì xác định Lê Văn T có hành vi cho hai đôi trai gái thực hiện việc mua, bán dâm tại địa điểm nhà nghỉ X do bị cáo quản lý, kinh doanh trong đó H1 bán dâm cho H, H2 bán dâm cho V. Do vậy, Hội đồng xét xử chỉ có căn cứ xác định hành vi sử dụng phòng 201 và 202 nhà nghỉ X do bị cáo quản lý để cho trai gái mua, bán dâm (02 người bán dâm) mục đích để thu lời bất chính đã phạm vào tội “ Chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự. Cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo T theo quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và xử phạt bị cáo với mức án 30 tháng tù là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND Thành phố Hải Dương, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp .

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 11 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 98/2019/HS-ST ngày 30 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 327, khoản 2 Điều 35, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Chứa mại dâm”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/01/2019.

2. Về án phí: Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 11 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 thì bị cáo không phải nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2019/HS-PT ngày 21/08/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:101/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về