Bản án 101/2019/HSST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 101/2019/HSST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 82/2019/HSST ngày 03 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

- Họ và tên: NGUYỄN KIỀU HẢI U, sinh ngày: 26/12/1996; Tại tỉnh: Đắk Lắk; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 267/12 đường M, phường T, Tp.B, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay: không nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1970 và con bà Đỗ Nhật L, sinh năm 1966, hiện trú tại: 267/12 đường M, phường T, Tp.B, tỉnh Đắk Lắk; Bị cáo có chồng là Hà Xuân H, sinh năm 1989 và có 01 con sinh năm 2014, hiện đều trú tại: 257/9 đường M, phường T, Tp.B, tỉnh Đắk Lắk. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 17/5/2016, Nguyễn Kiều Hải U có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị Uỷ ban nhân dân phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định số 88/QĐ-UBND ngày 25/8/2016 về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường với thời gian 03 tháng. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 25/01/2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột – Có mặt;

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Bùi Thị Thanh B, sinh năm 1980.

Địa chỉ: 203/17 Đ, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

Người làm chứng: Chị Trương Thị Kim C – Sinh năm 1993.

Địa chỉ: 18/3 Đặng Nguyên C, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Kiều Hải U là đối tượng nghiện ma túy, loại Methamphetamine từ năm 2015. Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, U đã mua ma túy về bán cho con nghiện. Vào khoảng 21 giờ 40 phút ngày 25/01/2019, khi U đang ở phòng trọ tại 203/19 Đ, phường T, thành phố B thì có một người nam giới tên G (chưa rõ nhân thân lai lịch) đến hỏi mua ma túy, U nói hết rồi, để U đi lấy về bán thì G đồng ý. Sau khi G về, U liên lạc bằng điện thoại với một người nam giới tên L (chưa rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua ma túy với số tiền 1.800.000 đồng, thì L đồng ý. L hẹn U đi đến cây xăng ở đường Đ, phường T, thành phố B. Khoảng 10 phút sau, có một người nam giới (không rõ nhân thân lai lịch) đến lấy tiền rồi đưa ma túy cho U, U cất gói ma túy vào trong ống tay áo khoác phía bên trái đang mặc, rồi đi bộ đến đầu hẻm số 203 đường Đ, phường T thì bị Công an phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk phát hiện, thu giữ của U: 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể được niêm phong theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 101/GĐMT-PC09 ngày 29/01/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 1,3235 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 107/CT-VKS ngày 01 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Nguyễn Kiều Hải U về tội “Mua bá trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra và theo nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng số 107/CT-VKS ngày 01 tháng 4 năm 2019, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kiều Hải U phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Nguyễn Kiều Hải U từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù.

* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 1,2495 gam ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định là tang vật của vụ án.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với 01 chiếc điện thoại hiệu OPPO A37, gắn sim số 0947.475.090 của bị can sử dụng vào mục đích phạm tội.

Bị cáo Nguyễn Kiều Hải U không có ý kiến tranh luận gì thêm chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 21 giờ 40 phút ngày 25/01/2019, tại khu vực hẻm 203 đường Đ, phường T, thành phố B Nguyễn Kiều Hải U đã có hành vi mua 1,3235 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích là bán lại cho các con nghiện thì bị Công an phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà.

[2]. Lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, chứng minh đầy đủ các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, như vậy quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Kiều Hải U về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Kiều Hải U phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, đồng thời còn gây mất ổn định trị an xã hội, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác, làm tổn hại giống nòi, làm lan truyền các căn bệnh xã hội, trong đó có đại dịch HIV/AIDS. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được rằng, ma túy là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt và sử dụng trái phép. Song do lối sống không lành mạnh, nghiện ngập, cần tiền mua ma túy để sử dụng và tiêu xài nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội của mình. Khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu đã bị Ủy ban nhân dân phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường với thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, có như vậy mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Kiều Hải U, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

Đối với chị Bùi Thị Thanh B là chủ nhà trọ cho bị cáo thuê ở, chị B không biết việc bị cáo mua bán ma túy. Vì vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với nguồn ma túy Methamphetamine bị cáo khai nhận mua của một người tên L, do chưa xác minh được nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An thành phố Buôn Ma Thuột đã tách hành vi của đối tượng này để tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Đối với người nam giới tên G có hành vi hỏi mua chất ma túy của bị cáo Nguyễn Kiều Hải U vào ngày 25/01/2019, do chưa xác minh được nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An thành phố Buôn Ma Thuột đã tách hành vi của đối tượng này ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

[3].Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo trong khi lượng hình, để giảm nhẹ một phần hình phạt, đồng thời thể hiện được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[4]. Về các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 1,2495 gam ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định là tang vật của vụ án.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với 01 chiếc điện thoại hiệu OPPO A37, gắn sim số 0947.475.090 của bị can sử dụng vào mục đích phạm tội.

[5]. Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện các quyết định điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Kiều Hải U không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kiều Hải U phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Kiều Hải U 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 25/01/2019.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 1,2495 gam ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định là tang vật của vụ án.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với 01 chiếc điện thoại hiệu OPPO A37, gắn sim số 0947.475.090 của bị can sử dụng vào mục đích phạm tội (Tang vật có đặc điểm như trong biên bản giao nhân vật chứng giữa Cơ

quan Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột ngày 03/4/2019).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Kiều Hải U phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2019/HSST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:101/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về