Bản án 101/2019/HSST ngày 30/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 101/2019/HSST NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 07 năm 2019, tại Toà án nhân dân Quận T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 104/2019/HSST ngày 11 tháng 7 năm 2019, theo quyết nh đưa vụ án ra xét xử số 103/QĐXX-HSST ngày 15 tháng 7 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn Văn S - Sinh ngày 28 tháng 10 năm 1983; Nơi ĐKHKTT: Thôn C, xã N, huyện K, tỉnh H;Nơi ở: Lang thang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Nguyễn Văn K - Sinh năm: 1959; Con bà: Trần Thị B - Sinh năm: 1960; Vợ: Tạ Thị U - Sinh năm: 1991; có 02 con. Con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2012. Theo danh chỉ bản số 162 lập ngày 10 tháng 4 năm 2019 của công an quận T thì Tiền án: 01 tiền án đã được xóa án tích: Bản án số 34/HSST ngày 27/06/2001, Tòa án nhân dân tỉnh H xử phạt 48 tháng tù về tội Cướp tài sản, 12 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt chung cả hai tội là 60 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/2/2001. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2002 ( đặc xá). Tiền sự: Không Bị can bị bắt quả tang ngày 04/4/2019. Hiện bị can đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 1 Công an thành phố H -Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khong 15h30’ ngày 04/4/2019, Nguyễn Văn S đang ngồi uống nước trên đường T – H – H thì có một người đàn ông không quen biết sử dụng số điện thoại 0969351748 gọi đến số điện thoại 0977124354 của S hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá và giao ma túy đến nhà nghỉ VIP T số 32 ngõ 282 L – B – T - H. S đồng ý. Sau đó S gọi điện cho một người phụ nữ tên là T(S không biết tên, tuổi địa chỉ) có số điện thoại 0973023789 bảo T bán cho S2.000.000 đồng ma túy đá, T đồng ý bảo S đến khu vực phố K, quận H, H để để giao ma túy. Sau đó S điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS: 29R8 - 0989 đi đến phố K, quận H, H để mua ma túy của Trang. Tại đường Kim Đồng, S gặp và đưa cho T số tiền 2.000.000 đồng. T cầm tiền rồi đưa lại cho S 01 túi nilông bên trong chứa tinh thể màu trắng (S biết đó là ma túy đá). Sau khi mua được ma túy, S lấy một phần trong số ma túy vừa mua được cho vào 01 túi nilông mang theo sẵn và bọc cả hai túi vào một gói giấy màu trắng rồi cất giấu vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc rồi điều khiển xe máy đến nhà nghỉ VIP T tại số 32 ngõ 282 L, quận T, H để giao ma túy. Khi S đi đến số 32 ngõ 282 L - B - T - H thì tổ công tác công an phường Bưởi kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, S không xuất trình được giấy tờ tùy thân và đã tự tay lấy ra 01 gói bọc ngoài bằng giấy màu trắng bên trong chứa 02 túi nilông ma túy đang giấu ở túi áo khoác bên trái phía trước đang mặc ra giao nộp cho tổ công tác và khai nhận chất tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilông là ma túy đá của S. Tổ công các đã tiến hành lập biên bản, niêm phong tang vật đưa Scùng tang vật, phương tiện về trụ sở công an phường B để giải quyết.

* Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói bọc giấy màu trắng bên trong có: 01 túi nilông màu trắng kích thước 4x4 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilông màu trắng kích thước 42,5 x 2,5 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS: 29R8-0989, SK: RLHHC 8072Y103144, số máy: HC08E-0103304; 01 ví màu hồng đã qua sử dụng; 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu FORME có số IMEI 1: 359071081527796; IMEI 2: 359071081527804; 01 cân điện tử màu đen nhãn hiệu Aosal; 30 túi nilông màu trắng chưa qua sử dụng; Số tiền 957.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 2196/KLGĐ-PC09 ngày 12/6/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự công an thành phố H kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilông kích thước 4x4cm là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 4, 243 gam.

-Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilông kích thước 42,5 x 2,5cm là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0, 316 gam.

- 01 cân điện tử màu đen nhãn hiệu Aosal có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn S khai hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời khai của Sphù hợp biên bản phạm tội quả tang, lời khai nhân chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án. Ngoài ra, S còn khai nhận là đối tượng nghiện ma túy đá, khi cần sử dụng ma túy hay có người hỏi mua. S gọi điện cho T để mua 2.000.000 đồng tiền ma túy đá, S đã mua của T khoảng 03 lần, mỗi lần 2.000.000 đồng sau đó dùng cân điện tử chia thành 10 túi nhỏ 0,5 gam và bán với giá 500.000 đồng một túi. Khi mua bán ma túy chỉ có S và T biết. S khai đã bán ma túy cho người đàn ông có số điện thoại 0969351748 khoảng 03 lần, mỗi lần giao ma túy ở một địa điểm khác nhau trên địa bàn thành phố H nên S không nhớ được địa điểm đã giao ma túy. Sau đó S thay đổi lời khai và khai nhận ngày 04/4/2019 là lần đầu tiên S bán ma túy cho người đàn ông có số điện thoại 0969351748. Mục đích S bán ma túy để kiếm lời.

Đi với đối tượng tên T có số điện thoại 0973023789 bán ma túy cho S, S khai không biết tên, tuổi, địa chỉ. Cơ quan điều tra đã ra Lệnh thu giữ thư tín điện tín đối với số thuê bao 0973023789 thể hiện chủ số thuê bao là Đinh Thị T(Sinh ngày 20/4/1991; Địa chỉ: 324 B – L – H – H). Cơ quan điều tra đã xác minh đối tượng Đinh Thị T tại công an phường L thể hiện: Từ năm 2014, Đinh Thị T không ăn ở tại địa chỉ trên, chính quyền địa phương không biết Đinh Thị T đi đâu, làm gì. Do vậy cơ quan điều tra chưa làm rõ được đối tượng tên T bán ma túy cho S. Ngày 26/6/2019, cơ quan điều tra đã ra quyết định tách vụ án hình sự về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy liên quan đến đối tượng T để điều tra xử lý sau.

Đi với người đàn ông sử dụng số điện thoại 0969351748 gọi điện mua ma túy của S. Skhai không biết tên, tuổi, địa chỉ. Cơ quan điều tra đã ra Lệnh thu giữ thư tín, điện tín đối với số thuê bao trên đăng ký chủ thuê bao là Công ty TNHH nước dinh dưỡng GC; Địa chỉ: Số 19 ngõ 121 đường Lê Thanh N - Đồng T - H - HCơ quan điều tra đã xác minh tại địa chỉ trên, Công an phường Đồng T cung cấp không có Công ty TNHH nước dinh dưỡng GC tại địa chỉ trên. Do vậy không có căn cứ để xác minh làm rõ người đàn ông sử dụng số điện thoại 0969351748 mua ma túy của S.

Về hành vi Nguyễn Văn S khai mua ma túy của T nhiều lần và bán ma túy cho người đàn ông có số điện thoại 0969351748. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra chưa xác minh làm rõ được đối tượng T và không làm rõ được đối tượng mua ma túy của S. Ngoài lời khai của bị can S không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh Smua ma túy của T nhiều lần, do vậy chưa đủ căn cứ để xử lý đối với Nguyễn Văn S về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần.

Đi với số điện thoại 0977124354, Ssử dụng liên lạc với T và đối tượng mua ma túy. Skhai mua số sim điện thoại trên ở một cửa hàng bán sim thẻ để sử dụng, nhưng Skhông nhớ địa chỉ. Cơ quan điều tra đã ra Lệnh thu giữ thư tín điện tín đối với số thuê bao 0973023789, thể hiện chủ số thuê bao trên là Nguyễn Thị T (Sinh ngày 01/01/1977; Địa chỉ: Xóm C – H –T – H). Cơ quan điều tra đã xác minh tại địa chỉ trên, Công an xã Hữu H cung cấp không xác định được người có tên Nguyễn Thị T ở địa phương.

Đi với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS: 29R8-0989, SK: RLHHC 8072Y103144, số máy: HC08E-0103304, Skhai mượn của bạn xã hội tên là Phương vào khoảng đầu tháng 3/2019. Cơ quan điều tra đã tra cứu xe không nằm trong hệ thống xe tang vật. Tra cứu chủ xe có thông tin: Nguyễn Thị L, địa chỉ: Nguyệt Á - Đại A - T. Xác minh tại địa chỉ Nguyệt A - Đại A - T, nhưng không xác định được chủ xe Nguyễn Thị L. Cơ quan điều tra đã tiến hành giám định số khung, số máy của xe máy trên. Tại bản kết luận giám định số 2994/KL-PC09-Đ3 ngày 17/5/2019 của phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố H kết luận: Số khung số máy là số nguyên thủy. Ngày 10/4/2019, Cơ quan điều tra đã đăng báo An ninh thủ đô để tìm chủ sở hữu, nhưng chưa tìm được. Ngày 26/6/2019, cơ quan điều tra đã ra quyết định tách rút tài liệu liên quan đến chiếc xe máy để điều tra xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 08/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận T đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND quận T giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng theo khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đề nghị hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 06 năm tù đến 06 năm 6 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy 01 gói bọc giấy màu trắng bên trong có: 01 túi nilông màu trắng kích thước 4x4 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilông màu trắng kích thước 42,5 x 2,5 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 ví màu hồng đã qua sử dụng; 30 túi nilông màu trắng chưa qua sử dụng;

Tch thu sung công quĩ nhà nước: 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu FORME có số IMEI 1: 359071081527796; IMEI 2: 359071081527804; 01 cân điện tử màu đen nhãn hiệu Aosal; Số tiền 957.000 đồng.

Bị cáo nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo xác định có tội, đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an quận T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, qua xét hỏi và tranh luận bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của nhân chứng, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là khoảng 18 giờ ngày 04/04/2019, tại khu vực trước số nhà 32 ngõ 282 L, phường B, quận T, H. Nguyễn Văn S đã có hành vi Tàng trữ trái phép 02 túi ni lông bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methanphetamine có tổng khối lượng: 4,599 gam đem bán cho đối tượng mua túy, mục đích để hưởng lợi bị tổ công tác công an phường B bắt quả tang.Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội danh và hình phạt được qui định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ma tuý là một hiểm hoạ mà cả nhân loại đang ra sức loại trừ khỏi đời sống xã hội, nó làm ảnh hưởng tới sức khoẻ và kinh tế gia đình, làm huỷ hoại nhân cách con người và phát sinh nhiều tội phạm hình sự khác. Ma tuý là nguyên nhân lây lan căn bệnh HIV/AIDS vô phương cứu chữa.Vì tham lam, tư lợi nên bị cáo đã phạm tội, việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết có tính chất răn đe và phòng ngừa chung.

Với những phân tích trên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe và giáo dục bị cáo.

[3] Về nhân thân: Bị cáo có 01tiền án đến nay tuy đã đươc xóa án tích nhưng cho thấy bị cáo có nhân thân xấu.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ sau: Tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy 01 gói bọc giấy màu trắng bên trong có: 01 túi nilông màu trắng kích thước 4x4 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilông màu trắng kích thước 42,5 x 2,5 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 ví màu hồng đã qua sử dụng; 30 túi nilông màu trắng chưa qua sử dụng;

Tch thu sung công quĩ nhà nước: 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu FORME có số IMEI 1: 359071081527796; IMEI 2: 359071081527804; 01 cân điện tử màu đen nhãn hiệu Aosal; Số tiền 957.000 đồng.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

-Áp dụng khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự;

-Áp dụng điều 329; điều 331; điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn S 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 04 tháng 04 năm 2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Tch thu sung công quĩ nhà nước: Số tiền 957.000 đồng hiện đang lưu giữ tại kho bạc nhà nước quận T theo biên bản giao nhận tài sản số 41/BBGN-KBNN ngày 25 tháng 4 năm 2019. 

01 điện thoại màu đen nhãn hiệu FORME có số IMEI 1: 359071081527796; IMEI 2: 359071081527804; 01 cân điện tử màu đen nhãn hiệu Aosal.

Tch thu tiêu hủy 01 bao niêm phong bên trong có 01 gói bọc giấy màu trắng bên trong có: 01 túi nilông màu trắng kích thước 4x4 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilông màu trắng kích thước 42,5 x 2,5 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 ví màu hồng đã qua sử dụng; 30 túi nilông màu trắng chưa qua sử dụng Số tang vật nêu trên hiện đang lưu giữ tại chi cục Thi hành án dân sự quận T theo biên bản giao vật chứng ngày 11/07/2019.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 101/2019/HSST ngày 30/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:101/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về