Bản án 10/2018/HNGĐ-ST ngày 07/02/2018 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CÁI RĂNG, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 10/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/02/2018 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 07 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cái Răng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 258/2017/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2017. Về tranh chấp “Xin ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2018/QĐXX-ST ngày 22 tháng 01 năm 2018. Giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà LÊ HOÀNG ANH T; Sinh năm: 1981; HKTT: 277B, KV. TT, P. PT, Q. Cái Răng, TP. Cần Thơ. Có mặt.

- Bị đơn: Ông NGUYỄN HỮU Đ; Sinh năm: 1982; Trú tại: 73, KV. TT, P. PT, Q. Cái Răng, TP. Cần Thơ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 06/7/2017 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà Lê Hoàng Anh T trình bày:

1/ Về hôn nhân: bà và ông Nguyễn Hữu Đ tự nguyện kết hôn vào năm 2001, có đăng ký kết hôn tại UBND phường An Lạc, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ vào ngày 26/02/2003. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc được khoảng 10 năm, năm 2013 thì vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do Ông Đ cờ bạc, không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình nên vợ chồng thường xuyên cải vã. Ông Đ còn có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Bà đã cố hàn gắn để vợ chồng đoàn tụ nhưng mâu thuẫn ngày càng lớn, không hàn gắn được nên ly thân, bà vẫn ở nhà cha mẹ ruột từ tháng 5 năm 2017 đến nay, còn Ông Đ (ở rễ) đã bỏ về nhà cha mẹ tại 73, KV. Thạnh Thuận, P. Phú Thứ, Q. Cái Răng, TP. Cần Thơ. Nhận thấy không còn tình cảm với ông Đ, không thể hàn gắn được nên bà T xin ly hôn để không còn ràng buộc với nhau.

2/ Về con chung: Bà khai vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Lê Gia H (nam) sinh ngày 11/9/2003. Bà có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu Ông Đ cấp dưỡng để nuôi con.

3/ Về tài sản và nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết, bị đơn ông Nguyễn Hữu Đ đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn cố tình vắng mặt không rõ lý do. Vì thế Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó sau khi tiến hành đầy đủ các thủ tục cần thiết theo qui định, vụ án được đưa ra xét xử công khai vắng mặt bị đơn.

Trước phiên tòa hôm nay: Nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu xin được ly hôn, được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng. Tài sản và nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án điều chỉnh. Bị đơn Nguyễn Hữu Đ tiếp tục vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát trình bày: Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng trước khi mở phiên tòa cũng như tại tòa hôm nay là đúng qui định của pháp luật, không phát hiện vi phạm. Về nội dung, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai của các đương sự tại tòa đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Sau khi nghe ý kiến phát biểu của nguyên đơn và đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bà Lê Hoàng Anh T và ông Nguyễn Hữu Đ xây dựng quan hệ hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo qui định của pháp luật. Nên được xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Nhận thấy cuộc sống chung của hai vợ chồng đã có thời gian hạnh phúc, đã có con chung với nhau. Lẽ ra cả hai phải càng hiểu và quan tâm đến nhau nhiều hơn. Nhưng Ông Đ lại không quan tâm đến vợ con, không thiện chí hàn gắn khi có rạn nứt trong quan hệ vợ chồng. Thậm chí khi bà T có đơn xin ly hôn tại tòa án ông vẫn không quan tâm, không liên hệ với Tòa án để trình bày ý kiến của mình. Qua xác nhận của Công an phường Phú Thứ ngày 08/11/2017 (BL 33) thì Ông Đ đăng ký thường trú và hiện vẫn đang sinh sống tại địa phương nhưng cố tình vắng mặt không liên hệ với Tòa án để giải quyết vụ kiện. Chứng tỏ ông không có thiện chí muốn duy trì cuộc hôn nhân này với bà T nữa.

[3] Mặc dù đã được động viên hàn gắn đoàn tụ nhưng bà T cho rằng giữa vợ chồng không hòa hợp về tính cách nên thường gây gỗ, Ông Đ không quan tâm đến bà. Bản thân bà cũng không còn tình cảm gì với ông Đạt, không còn tha thiết muốn duy trì cuộc hôn nhân này nữa. Hội đồng xét xử nhận thấy đời sống chung thực tế của hai vợ chồng bà T và Ông Đ đã không còn tồn tại, mục đích hôn nhân của hai người không Đ được. Và hôn nhân thì phải xuất phát từ sự tự nguyện của cả hai người. Nên việc bà Lê Hoàng Anh T xin được ly hôn là hoàn toàn phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có yêu cầu được nuôi con. Xét bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn không liên hệ tòa án và không thể hiện ý kiến gì về vấn đề này. Cháu Nguyễn Lê Gia H (nam) sinh ngày 11/9/2003, đã hơn 14 tuổi, hiện đang sống với bà T và khi được lấy ý kiến cháu có nguyện vọng được sống với mẹ (BL 31). Mặc khác trong thời gian vợ chồng ly thân và hiện nay cháu đều do bà T nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt và phù hợp với giới tính và tâm sinh lý của cháu, theo Điều 58 và 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014, có căn cứ để chấp nhận nguyện vọng của bà T là được trực tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên Ông Đ vẫn được quyền tới lui thăm con theo qui định của pháp luật.

[5] Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: mặc dù đã được giải thích vấn đề cấp dưỡng là quyền lợi của con chung chứ không phải của người nuôi con nhưng bà T vẫn không yêu cầu. Xét đây là tự nguyện thỏa thuận của đương sự, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên chấp nhận. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung không được đặt ra giải quyết do đương sự không yêu cầu.

[6] Về tài sản và nợ chung: Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn xác định không có và không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không điều chỉnh.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

- Căn cứ Điều 28, 35, 147, 235, 264, 267, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Căn cứ Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/- Chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.

Cho bà Lê Hoàng Anh T được ly hôn với ông Nguyễn Hữu Đ.

2/- Về con chung: giao cháu Nguyễn Lê Gia H (nam) sinh ngày 11/9/2003 cho bà Lê Hoàng Anh T tiếp tục nuôi dưỡng.

Không đặt vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung cho ông Nguyễn Hữu Đ.

Dành quyền thăm nom con chung cho ông Nguyễn Hữu Đ theo qui định của pháp luật.

3/- Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu nên không điều chỉnh. Nếu sau này các bên có yêu cầu thì sẽ được tách ra thành vụ kiện khác để giải quyết theo qui định của pháp luật.

4/- Về án phí: Bà Lê Hoàng Anh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 006011 ngày 11/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự Q. Cái Răng. Bà T đã nộp xong án phí hôn nhân sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bà T được quyền kháng cáo và kể từ ngày bản án được niêm yết tại trụ sở UBND P. Phú Thứ, nơi cư trú hoặc từ khi nhận được bản án ông Nguyễn Hữu Đ được quyền kháng cáo để xin Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HNGĐ-ST ngày 07/02/2018 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:10/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về