Bản án 10/2018/HSST ngày 15/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 10/2018/HSST NGÀY 15/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 15 tháng 3 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Sông Công xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2018/HSST ngày 12 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Hùng D - tên gọi khác: Không, sinh 30/01/1972; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Tổ dân phố 4 T, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa 7/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Vũ Trọng Th; sinh năm 1936 và bà Hà Thị H, sinh năm 1943; Gia đình có 08 anh em, bị cáo là con thứ 05; Vợ là Vũ Thị H1 ; sinh năm 1972 , có 02 con  chung con lớn sinh năm 1993 con nhỏ sinh năm 2003; Tiền án không;

Tiền sự: Ngày 08/12/2017 bị Ủy ban nhân dân phường Lương Sơn ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Sông Công từ ngày 17/12/2017 đến nay.

*Người làm chứng (Có mặt)

1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1964

Trú tại: Tổ 4 N, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên( Có mặt )

2. Anh Dương Đình C; sinh 1973

Trú tại: Tổ 5, phường L, thành phố S, tỉnh Thái NguyêN (Vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ  ngày 17/12/2017, tại khu vực tổ dân phố S, phường L, thành phố S, tổ công tác thuộc đội Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sông Công đang tiến hành tuần tra, kiểm soát thì phát hiện Vũ Hùng D có biểu hiện nghi vấn. Tiến hành kiểm tra hành chính thì D đã tự giác lấy từ túi quần phía trước bên phải đang mặc 01 vỏ bao thuốc là nhãn hiệu Thăng Long, bên trong có 01 gói nhỏ giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng giao nộp và khai nhận là Heroine mua về để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ vật chứng. ( Bút lục: 10 - 11) Tiến hành cân xác định trọng lượng 01 gói ma túy thu giữ được của bị cáo có trọng lượng 0,206 gam (BL 34)

Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định đối với số chất bột màu trắng thu giữ của Vũ Hùng D, tại bản kết luận giám định số 164/KL - PC54 ngày 22/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận  Chất bột màu trắng thu giữ của Vũ Hùng D là chất ma túy, loại Heroine.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Do bản thân nghiện chất ma túy nên khoảng 11 giờ ngày 17/12/2017 D một mình đi bộ ra đường Quốc lộ 3, đến đoạn đường thuộc tổ dân phố S, phường L, thành phố S tìm mua ma túy, tại đây, D gặp và đưa cho một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ ) 100.000đ để mua heroine, người đàn ông này nhận tiền và đưa cho D 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa Heroine, D cầm bao thuốc lá cho vào túi quần phía trước bên phải đang mặc, rồi đi bộ về nhà, khi đi được một đoạn thì bị tổ công tác công an thành phố Sông Công kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên. (Bút lục: 44 - 66)

Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng, đồ vật liên quan: 0,164 gam Heroine còn lại sau giám định được niêm phong trong bì ký hiệu D1 và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long.

Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 12/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công đã truy tố bị cáo Vũ Hùng D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh và Điều luật áp dụng.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ  trái phép chất ma túy

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 3 Điều 7  BLHS 2015.

Xử phạt: Bị cáo từ 18 đến  24 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS xử lý vật chứng theo quy định:

Áp dụng: Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình  truy tố và tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố, bị cáo không  có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an,Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố Sông Công trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắtngười phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản cân xác định trọng lượng, biên bản mở niêm phong vật chứng,  lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Vào hồi 12 giờ ngày 17/12/2017 tại tổ dân phố S, phường L, thành phố S, Vũ Hùng D tàng trữ trái phép 0,206 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân ngoài ra không còn mục đích nào khác thì bị bắt quả tang thu giữ vật chứng. Hành vi trên của D  đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành cơ bản của tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ Luật Hình sự năm 1999 cũng như điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật Hình sự năm 2015

Điều 194 của Bộ Luật Hình sự quy định

“1. Người nào...mua bán..... trái phép chất ma tuý thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

Do hành vi nêu trên của Vũ Hùng D xảy ra trước 01/01/2018 cũng như do có thay đổi trong chính sách pháp luật hình sự, nên căn cứ Bộ Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành BLHS, thì hành vi của bị cáo được áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 có mức hình phạt thấp hơn so với khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 (theo hướng có lợi cho bị cáo) Nội dung điều luật như sau:

“1. Người nào tàng trữ  trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroin có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung

[4]Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự : Hội đồng xét xử thấy:

Về nhân thân: Tiền  án: Không ; Tiền sự: Ngày 08/12/2017 bị Ủy ban nhân dân phường Lương Sơn ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999; Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 48 BLHS.

Cần áp dụng Điều 329 của bộ luật tố tụng Hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Mức án mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5]Vật chứng của vụ án: Xét thấy toàn bộ vật chứng nêu trên là những vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ toàn bộ.

Về hình phạt bổ sung: Hiện bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không có việc làm ổn định, không có thu nhập, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc số ma túy bị cáo khai: Mua của một không rõ tên tuổi địa chỉ nên chưa có cơ sở điều tra làm rõ sử lý đối với người này.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : Bị cáo Vũ Hùng D phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 3 Điều 7 BLHS 2015, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Hùng D 18 (Mười tám) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/12/2017.Áp dụng Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự tạm giam bị cáo với thời hạn45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 bộ luật Hình sự năm 1999; Điều 106 bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có ký hiệu (C1) bên trong chứa 0,202 gam mẫu (C1) còn lại sau giám định; 01 phong bì ký hiệu C2 bên trong có01 vỏ bì niêm phong ký hiệu C; 01 xi lanh nhựa loại 3 ml chưa qua sử dụng(Hiện vật chứng trên đang được lưu giữ, bảo quản  tại kho và tài khoản của Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Sông Công theo biên bản giao nhận ngày 22 tháng 2 năm 2018)

3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST sung quỹ Nhà nước.Án xét xử hình sự công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2018/HSST ngày 15/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:10/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sông Công - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về