Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 12/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ - TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 42/2019/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1984; Hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương; hiện trú tại: Thôn S, xã S, huyện K, tỉnh Hải Dương (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Khương Viết L, sinh năm 1984; nơi đăng ký HKTT và cư trú cuối cùng: Thôn H, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương (vắng mặt và đã bị Tòa án tuyên bố mất tích).

3. Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Lài; trú tại: Thôn H, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình làm việc nguyên đơn - chị Vũ Thị H trình bày: Chị và anh Khương Viết L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, được UBND xã L, huyện K tổ chức đăng ký và cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/02/2005. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống cùng gia đình anh L tại xã L, huyện K. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc được khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh L chơi bời, không quan tâm gì đến gia đình, hay đánh chửi chị. Tháng 8 năm 2016 anh L tự ý bỏ nhà đi, chị và gia đình đã áp dụng nhiều biện pháp tìm kiếm nhưng vẫn không có tin tức gì của anh nên chị đã yêu cầu Tòa án tuyên bố anh L mất tích. Tại Quyết định giải quyết việc dân sự số: 01/2019/QĐST- DS ngày 31/01/2019, Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ đã tuyên bố anh Khương Viết L mất tích.

Kể từ khi Tòa án tuyên bố anh Khương Viết L mất tích đến nay chị và gia đình vẫn không có tin tức gì về anh L. Do hôn nhân không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị khởi kiện xin ly hôn.

Về quan hệ con chung: Chị và anh L có 01 con là Khương Viết Th, sinh ngày ...năm 2008, hiện đang do chị nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, chị đề nghị giao con cho chị tiếp tục nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh L phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Về quan hệ tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai, bà Nguyễn Thị L1 là mẹ đẻ của anh L trình bày: Về quá trình kết hôn, thời gian chung sống, con chung giữa chị H và anh L đúng như chị H trình bày; bà xác định từ khi anh L bỏ đi (tháng 8 năm 2016) đến nay gia đình bà không có tin tức gì về anh L. Nay chị H xin ly hôn, bà đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo nguyện vọng của chị H.

Tại biên bản xác minh, UBND xã L cung cấp: Việc tổ chức đăng ký kết hôn, thời gian chung sống giữa chị H và anh L tại địa phương xã L đúng như chị H trình bày. Năm 2016 anh L bỏ đi, địa phương không nắm được anh L đi đâu, làm gì và từ đó đến nay địa phương không có tin tức gì về anh L. Nay chị H xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn - chị Vũ Thị H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Khương Viết L và giao con cho chị tiếp tục nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh L phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Ngoài ra, chị không có yêu cầu, đề nghị nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ có quan điểm xác định việc Tòa án thụ lý, quá trình giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị H đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 68 Bộ luật Dân sự (BLDS); Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS); Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Vũ Thị H ly hôn anh Khương Viết L; giao con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng; chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng cho con; chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đương sự trong phần tranh luận, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại Quyết định giải quyết việc dân sự số 01/2019/QĐST-DS ngày 31/01/2019, Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ đã tuyên bố anh Khương Viết L mất tích, từ đó đến nay không có bất kỳ tin tức gì về anh L nên vụ án không tiến hành hòa giải được, không lấy được lời khai của anh L và Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh L là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H và anh Khương Viết L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, được UBND xã L, huyện K nơi sinh sống của anh L tổ chức đăng ký và cấp Giấy chứng nhận kết hôn, việc kết hôn không vi phạm điều cấm của pháp luật nên hôn nhân giữa chị H và anh L là hợp pháp.

[3] Anh L đã bị tuyên bố mất tích, chị H khởi kiện xin ly hôn. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chị H, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 68 BLDS chấp nhận yêu cầu khởi kiện, cho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Khương Viết Luận.

[4] Về quan hệ con chung: Chị Vũ Thị H và anh Khương Viết L có 01 con là Khương Viết Thuận, sinh ngày 31/01/2008, hiện chị H đang nuôi dưỡng. Chị H đề nghị giao con cho chị tiếp tục nuôi dưỡng và cháu Thuận cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Xét điều kiện thực tế, nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con, HĐXX căn cứ vào các điều: 81, 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và chấp nhận sự tự nguyện của chị không yêu cầu anh L phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

[5] Về quan hệ tài sản chung: Do không có yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị H khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 56; các điều: 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 68 BLDS; khoản 4 Điều 147 BLTTDS; khoản 1 Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về…án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Vũ Thị H ly hôn anh Khương Viết L.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cho chị Vũ Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con là Khương Viết Th, sinh ngày...năm 2008 cho đến khi đủ 18 tuổi; chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh Khương Viết L phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Anh Khương Viết L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm dân sự (ly hôn), được đối trừ với số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0005018 ngày 05 tháng 3 năm 2019.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 12/4/2019; anh Khương Viết L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 12/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về