Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 23/01/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/01/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện X xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 268/2018/TLST-HNGĐ, ngày 03/12/2018 về việc “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02/01/2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Phan Thị Kim C, sinh năm 1984. Địa chỉ: ấp 6, xã BĐ, huyện BL, tỉnh Long An.

* Bị đơn: Ông Trần Minh H, sinh năm 1985. Địa chỉ: ấp 4, xã TT, huyện X, tỉnh Long An.

 (Bà C có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 18/9/2018 và lời trình bày của nguyên đơn bà Phan Thị Kim C trong suốt quá trình giải quyết vụ án có nội dung như sau: Bà và ông H do mai mối, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2010, có đăng ký kết hôn ngày 23/01/2010 tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện X.

Thời gian đầu chung sống hạnh phúc. Sau phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Ông H không chăm lo cho gia đình. Vợ chồng bà đã ly thân từ khi có con chung cho đến nay.

Nay không thể hàn gắn được mối quan hệ hôn nhân này, bà xác định không còn tình cảm với ông H nên kiên quyết xin ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Thị Mỹ H, sinh ngày 05/7/2012. Khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con .

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Trần Minh H trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vẫn vắng mặt, không làm bản tự khai không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không cung cấp bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào và không có ý kiến phản hồi hay yêu cầu gì đối với việc khởi kiện của bà C, cũng như vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

Tòa án tiến hành thụ lý vụ án, hòa giải nhưng không được do bị đơn vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Thủ tục tố tụng:

Bà Phan Thị Kim C nộp đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Trần Minh H. Ông H cư trú tại ấp 4, xã TT, huyện X, tỉnh Long An, nên Tòa án nhân dân huyện X thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Trần Minh H là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử, nhưng vẫn không tham gia phiên tòa sơ thẩm là từ bỏ quyền lợi của mình, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Nội dung:

Tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do đó, ông H không đến Tòa để trình bày ý kiến, không có phản đối gì đối với yêu cầu của bà C là từ bỏ quyền lợi của mình, nên Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ án trên những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Bà C và ông H được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2010, có đăng ký kết hôn ngày 23/01/2010 tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện X. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Vợ chồng bà C đã ly thân từ khi có con chung cho đến nay.  Bà C xác định không còn tình cảm với ông H nên kiên quyết xin ly hôn.

Xét thấy, từ khi vụ án được thụ lý cho đến nay, ông H không có bất kỳ giải pháp nào để hàn gắn mối quan hệ hôn nhân với bà C và vắng mặt suốt quá trình tố tụng dù được Tòa án triệu tập hợp lệ.

Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn giữa bà C, ông H là trầm trọng. Ông H không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ hôn nhân với bà C nên yêu cầu xin ly hôn của bà C phù hợp với quy định tại khoản 1, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên có cơ sở chấp nhận.

Về nuôi con chung: Khi ly hôn, bà C yêu cầu được nuôi Trần Thị Mỹ H, sinh ngày 05/7/2012, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, con chung đang sống với bà vẫn phát triển bình thường. Xét thấy, hiện nay cháu H đang sống với bà C. Để đảm bảo ổn định cuộc sống, tránh việc thay đổi hoàn cảnh sống làm ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của cháu H, nên yêu cầu này của bà C có căn cứ chấp nhận. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con do bà C không yêu cầu.

Mặc dù không trực tiếp nuôi dưỡng con chung, nhưng ông H được quyền đến thăm, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con, thì một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

Về nợ chung, tài sản chung: Cho đến khi xét xử sơ thẩm, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này. Nếu sau này có tranh chấp, các đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

Từ các phân tích trên, yêu cầu khởi kiện của bà C là có căn cứ chấp nhận toàn bộ.

 [3] Về án phí: Căn cứ điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, bà C phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông H không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147, 227, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Kim C đối với ông Trần Minh H.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Kim C được ly hôn với ông Trần Minh H.

2/ Về nuôi con chung: Giao con chung tên Trần Thị Mỹ H, sinh ngày 05/7/2012 cho bà Phan Thị Kim C được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông Trần Minh H không cấp dưỡng nuôi con do bà Phan Thị Kim C không yêu cầu.

Mặc dù không trực tiếp nuôi dưỡng con chung, nhưng ông Trần Minh H được quyền đến thăm, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con, thì một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

3/ Về án phí: Bà Phan Thị Kim C phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Được khấu trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003982, ngày 28/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, tỉnh Long An. Bà Phan Thị Kim C không phải nộp thêm. Ông Trần Minh H không phải chịu án phí.

4/ Án xử sơ thẩm, đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 23/01/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về