Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về xin ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ XIN LY HÔN 

Ngày 31 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 49/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 15 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm: 1993. (Có mặt)

HKTT: thôn PL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN

Chỗ ở: thôn VX, xã CB, huyện QV, tỉnh BN.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm: 1989. (Có mặt)

HKTT, chỗ ở: thôn PL, xã PL, huyện QV, tỉnh BN

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 18/02/2019, biên bản ghi lời khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn V kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện, tuân thủ các quy định của pháp luật và đăng ký kết hôn tại UBND xã Phù Lãng ngày 02 tháng 01 năm 2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống chung với nhau ngay tại thôn Phù Lãng, xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình chung sống, đến cuối năm 2014 vợ chồng đã thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh V đi làm ăn xa, không quan tâm gì đến vợ con. Ngoài ra vợ chồng cũng không hợp nhau nhiều, nên thường xảy ra bất đồng ý kiến. Vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày một phai nhạt, ít nói chuyện với nhau, vợ chồng sống không có hạnh phúc. Hai bên gia đình đã nhiều lần hòa giải cho vợ chồng nhưng không thành. Chị xác định vợ chồng không thể chung sống hòa thuận được nên đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ khoảng tháng 10 năm 2017 đến nay, vợ chồng ly thân và đã cắt đứt quan hệ tình cảm từ đó. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được nên giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Quỳnh Chi, sinh ngày 06/11/2014 và Nguyễn Gia Hân, sinh ngày 21/8/2017. Khi vợ chồng ly thân thì cháu Nguyễn Gia Hân ở với chị, còn cháu Nguyễn Quỳnh Chi ở với anh V từ đó cho tới nay. Sau đó cháu Nguyễn Gia Hân bị ốm nặng và đã qua đời vào ngày 16/11/2018. Ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu Chi và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Về điều kiện nuôi con chị có đủ điều kiện, hiện chị đang làm công nhân ở KCN Quế Võ I, lương tháng khoảng từ 5 đến 7 triệu đồng. Chị chỉ làm ngày, không phải làm đêm, mặt khác cháu Chi là con gái, ở với mẹ có điều kiện chăm sóc hơn, nhất là khi cháu dậy thì. Anh V thì đi làm ăn xa, ở nhà chỉ có mẹ anh V chăm sóc cháu Chi là chính, nên không nhất trí giao con cho anh V nuôi. Hiện chị vẫn thường xuyên đón cháu Chi về ở với chị từ chiều thứ 6 đến chiều chủ nhật, sau đó lại đưa con về nhà anh V để cháu đi học. Anh V và gia đình cũng không gây khó khăn gì cho chị khi đến thăm nom và đón con về.

Về tài sản chung, công nợ, công sức, đất ruộng: Chị xác nhận vợ chồng không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra chị không trình bày và yêu cầu gì khác.

Theo bị đơn là anh Nguyễn Văn V trình bày:

Anh nhất trí như lời trình bày của chị T về thời gian và điều kiện kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng về ở chung cùng nhau ngay tại thôn Phù Lãng, xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hòa thuận bình thường, không có vấn đề gì lớn xảy ra. Đến tháng 8 năm 2017 sau khi vợ chồng sinh con thứ hai là cháu Nguyễn Gia Hân thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do hai vợ chồng không hợp nhau, nên thường xảy ra bất đồng ý kiến. Dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, vợ chồng sống không có hạnh phúc, ít nói chuyện được với nhau. Còn chị T bảo tôi không quan tâm đến vợ con là không đúng. Từ khi chị T về làm dâu nhà tôi thì không phải lo kinh tế gì, thậm trí không phải đi làm, tất cả là do tôi đi làm và lo hết từ cái nhỏ đến cái lớn. Mặc dù làm bên Hà Nội nhưng tôi vẫn thường xuyên về nhà, vì tôi có ô tô riêng và việc làm ổn định không bị gò bó thời gian. Từ tháng 10/2017 chị T đã tự bỏ nhà tôi về nhà mẹ đẻ ở tại thôn Vân Xá, xã Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Vợ chồng ly thân từ ngày đó cho đến nay cắt đứt mọi quan hệ, hai bên đều không có biện pháp nào để đoàn tụ. Nay tôi xác định vợ chồng ly thân đã lâu, không còn tình cảm nên không thể đoàn tụ được nữa. Nên nhất trí ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn cho chúng tôi.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Quỳnh Chi, sinh ngày 06/11/ 2014 và Nguyễn Gia Hân, sinh ngày 21/8/2017, hiện nay cháu Chi vẫn đang ở cùng tôi từ khi sinh đến nay, còn cháu Nguyễn Gia Hân đã qua đời vào ngày 16/11/2018 do bị ốm nặng. Vì lý do trong thời gian vợ chồng ly thân cháu Hân ở cùng với chị T, chị T chăm sóc, nuôi dưỡng không tốt dẫn đến hậu quả cháu đã bị ốm nặng và chết. Do đó tôi không tin tưởng giao con cho chị T nuôi nữa. Nên khi ly hôn tôi đề nghị Tòa án giao cháu Nguyễn Quỳnh Chi cho tôi tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Tôi có nhà cửa đàng hoàng, có công ăn việc làm ổn định, thu nhập cao trung bình 20 triệu đồng một tháng. Về thời gian tôi đi làm tự do nên chủ động, không phải làm ca kíp, nên có thời gian chăm sóc con. Những lúc tôi đi làm thì có mẹ tôi trông cháu, mẹ tôi còn trẻ khỏe lại ở nhà không phải đi làm ở đâu. Tôi có xe ô tô riêng nên thường xuyên về nhà chăm sóc con. Ngoài ra tôi đã mua nhà ở ngoài Hà Nội và có kế hoạch đón mẹ tôi và con tôi ra ngoài đó ở, điều kiện sống, sinh hoạt và học tập tốt hơn.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Tôi không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức, đất ruộng vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra anh V không trình bày và yêu cầu gì khác.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã yêu cầu các đương sự cung cấp căn cứ chứng minh điều kiện nuôi con như mức thu nhập hàng tháng hiện nay của các bên. Ngoài ra Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương về điều kiện sống, tình trạng nuôi con là cháu Nguyễn Quỳnh Chi của anh V từ trước đến nay.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Tất cả đều tuân thủ đúng, đủ theo quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 55, 81, 82, 83 - Luật hôn nhân và gia đình; Điều 235, 147 - Bộ luật tố tụng dân sự: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn V. Về con chung : Hiện vợ chồng có một con là cháu Nguyễn Quỳnh Chi đang ở cùng với anh V, điều kiện sống của cháu tốt, anh V có việc làm và thu nhập ổn định, cao. Mặt khác để không xáo trộn cuộc sống sinh hoạt học tập của cháu, ảnh hưởng đến tâm sinh lý của cháu. Nên cần chấp nhận yêu cầu của anh V, giao cháu Nguyễn Quỳnh Chi cho anh V tiếp tục nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chị T, anh V không yêu cầu nên không đề cập giải quyết. Chị T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung sau ly hôn mà không ai được cản trở. Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn V kết hôn với nhau ngày 02/01/2014 trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ các quy định của pháp luật, đăng ký kết hôn tại UBND xã Phù Lãng. Nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống chung với nhau ngay tại nhà anh V ở thôn Phù Lãng, xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình chung sống, theo chị T thì đến cuối năm 2014 vợ chồng đã thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh V đi làm ăn xa, không quan tâm gì đến vợ con. Ngoài ra vợ chồng cũng không hợp nhau nhiều, nên thường xảy ra bất đồng ý kiến. Vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày một phai nhạt, ít nói chuyện với nhau, vợ chồng sống không có hạnh phúc. Theo anh V thì sau khi vợ chồng sinh con thứ hai ngày 21/8/2017 mới phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do vợ chồng không hợp nhau. Còn chị T bảo anh không quan tâm đến vợ con là không đúng. Từ khi chị T về làm dâu nhà anh thì không phải lo kinh tế gì, thậm trí không phải đi làm, tất cả là do anh đi làm và lo hết từ cái nhỏ đến cái lớn. Mặc dù làm bên Hà Nội nhưng anh vẫn thường xuyên về nhà, vì anh có ô tô riêng và việc làm ổn định không bị gò bó thời gian. Hai bên gia đình đã nhiều lần hòa giải cho vợ chồng nhưng không thành. Chị T xác định vợ chồng không thể chung sống với nhau được nữa nên đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ khoảng tháng 10 năm 2017 đến nay. Vợ chồng ly thân và đã cắt đứt quan hệ tình cảm từ đó. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được nữa nên giữ nguyên yêu cầu ly hôn. Anh V cũng xác định vợ chồng ly thân đã lâu, không còn tình cảm, không thể đoàn tụ được nữa nên nhất trí ly hôn.

Xét sự thuận tình ly hôn của chị T và anh V là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp pháp luật và thực tế nên cần chấp nhận.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Quỳnh Chi, sinh ngày 06/11/2014 và Nguyễn Gia Hân, sinh ngày 21/8/2017. Khi vợ chồng ly thân thì cháu Nguyễn Gia Hân ở với chị T, còn cháu Nguyễn Quỳnh Chi vẫn ở với anh V từ trước đến nay. Sau đó cháu Nguyễn Gia Hân bị ốm nặng và đã qua đời vào ngày 16/11/2018. Ly hôn chị T yêu cầu được nuôi cháu Chi và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Về điều kiện nuôi con chị có đủ điều kiện, hiện chị đang làm công nhân ở KCN Quế Võ I, lương tháng khoảng từ 5 đến 7 triệu đồng. Chị chỉ làm ngày, không phải làm đêm, mặt khác cháu Chi là con gái, ở với mẹ có điều kiện chăm sóc hơn, nhất là khi cháu dậy thì. Anh V thì đi làm ăn xa, ở nhà chỉ có mẹ anh V chăm sóc cháu Chi là chính, nên không nhất trí giao con cho anh V nuôi. Hiện chị vẫn thường xuyên đón cháu Chi về ở với chị từ chiều thứ 6 đến chiều chủ nhật, sau đó lại đưa con về nhà anh V để cháu đi học. Anh V và gia đình cũng không gây khó khăn gì cho chị khi đến thăm nom và đón con về.

Ly hôn anh V cũng xin được nuôi con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Vì lý do trong thời gian vợ chồng ly thân cháu Hân ở cùng với chị T, một phần do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng không tốt dẫn đến hậu quả cháu đã bị ốm nặng và chết. Do đó anh không tin tưởng giao con cho chị T nuôi nữa. Mặt khác anh có nhà cửa đàng hoàng, có công ăn việc làm ổn định, thu nhập cao trung bình 20 triệu đồng một tháng. Về thời gian anh đi làm tự do nên chủ động, không phải làm ca kíp, nên có thời gian chăm sóc con. Những lúc anh đi làm thì có mẹ anh trông cháu, mẹ anh còn trẻ khỏe lại ở nhà không phải đi làm ở đâu. Anh có xe ô tô riêng nên thường xuyên về nhà chăm sóc con. Ngoài ra anh đã mua nhà ở ngoài Hà Nội và có kế hoạch đón mẹ anh và con anh ra ngoài đó ở, điều kiện sống, sinh hoạt và học tập tốt hơn.

Hi đồng xét xử xét thấy: Hiện nay cháu Nguyễn Quỳnh Chi đã hơn 36 tháng tuổi, chị T và anh V đều xác định cháu Chi vẫn ở với bố từ trước đến nay và vẫn ăn học phát triển tốt. Gia đình anh V vẫn đảm bảo quyền thăm nom con cho chị T, không gây khó khăn hay cản trở gì. Về điều kiện nuôi con chị T và anh V đều có đủ điều kiện nuôi con, đều có việc làm và thu nhập ổn định. Nhưng xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu Chi, để cháu Chi không bị xáo trộn cuộc sống sinh hoạt và học tập của cháu, ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm sinh lý của cháu. Mặt khác xét anh V có điều kiện nuôi con tốt hơn. Nên cần giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay, tiếp tục giao cháu Nguyễn Quỳnh Chi cho anh Nguyễn Văn V tiếp tục nuôi cho đến khi cháu Chi tròn 18 tuổi. Chị T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con sau ly hôn mà không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con chị T và anh V đều không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về tài sản chung, công sức, công nợ, đất ruộng: Vợ chồng không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí LHST: Chị T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 55, 81, 82, 83- Luật hôn nhân gia đình; Điều 28, 235, 147- Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn V.

Về con chung: Giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay, tiếp tục giao con chung là Nguyễn Quỳnh Chi, sinh ngày 06/11/2014 cho anh Nguyễn Văn V trực tiếp nuôi. Chị Nguyễn Thị T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con sau ly hôn mà không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi chị T và anh V không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đ án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị T đã nộp 300.000 đ tạm ứng án phí tại biên lai số: 0002878 ngày 26/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về xin ly hôn 

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về