Bản án 10/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂKTÔ, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 16 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐăkTô, tỉnh Kon Tum, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019/HSST-QĐ ngày 01 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

A B , sinh ngày 18 tháng 5 năm 2001 tại ĐT, Kon Tum; Nơi đăng ký NKTT: Thôn ĐM II, xã ĐRN, huyện C, tỉnh Kon Tum. Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Xơ đăng; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt nam; Con ông A Bụng và bà Y H đều trú tại thôn Đăk Thôn ĐM II, xã ĐRN, huyện C, tỉnh Kon Tum; bị cáo tại ngoại - Có mặt. Tiền án, tiền sự: Không;

* Người bị hại: Anh A K – Đã chết;

* Người đại diện hợp pháp của gia đình người bị hại: Chị Y N , sinh năm 1986;

Đa chỉ: Thôn ĐN, xã NT, huyện ĐT, tỉnh Kon Tum – Có mặt;

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Y H , sinh năm 1979;

Đa chỉ: Thôn ĐM II, xã ĐRN, huyện C, tỉnh Kon Tum – Có mặt.

* Người làm chứng:

- Anh NLC 1 , sinh năm 2000; Địa chỉ: Thôn ĐM II, xã ĐRN, huyện C, tỉnh Kon Tum - Có mặt.

- Chị NLC 2 , sinh năm 1990; Địa chỉ: Thôn ĐM II, xã ĐRN, huyện C, tỉnh Kon Tum - Có mặt.

- Chị NLC 3 , sinh năm 1983; Địa chỉ: Thôn ĐM II, xã ĐRN, huyện C, tỉnh Kon Tum - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ ngày 14/3/2019 A B sinh ngày 18/5/2001 không có giấy phép lái xe điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29R8-9472 chở NLC 1 đi từ xã Đăk Rơ Nga ra xã Ngọc Tụ chơi. Khi đi đến thôn Đăk Tông, xã Ngọc Tụ do chạy xe với tốc độ nhanh, không quan sát đường phía trước nên đã tông vào anh A K nằm bên mép đường. Lo sợ sau khi gây tai nạn nên A B đã quay xe chạy ngược lại về xã Đăk Rơ Nga đến trạm y tế xã khâu vết thương sau đó về nhà rông xã Đăk Rơ Nga để lẩn trốn. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày cơ quan công an đã làm việc với A B . Kết quả đo nồng độ cồn của A B sau khi gây tai nạn là 0,466mg/L. Anh A K chết trên đường đi cấp cứu do chấn thương sọ não.

Kết quả khám nghiệm cho thấy, hiện trường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường nhựa lưu thông phương tiện hai chiều, không có giải phân cách, tầm nhìn không bị che khuất. Lòng đường rộng 3,9m, lề phải rộng 1,2m, lề trái rộng 1m. Điểm đụng được xác định nằm trên mặt đường nhựa cách mép phải đường 80cm. Sau tai nạn xe mô tô BKS 29R8-9472 nằm nghiêng về bên trái trên mặt đường nhựa, trục bánh trước cách điểm đụng 24,65m, trục bánh sau cách điểm đụng 23,80m. Xe mô tô BKS 29R8-9472 A B điều khiển tham gia giao thông không đảm bảo quy định về an toàn kỹ thuật; xe bị độ chế nhiều bộ phận, hệ thống đèn chiếu sáng không đảm bảo .

Kết luận giám định pháp y về tử thi số 29 ngày 18/3/2019 của trung tâm pháp y tỉnh Kon Tum kết luận A K chết do chấn thương sọ não.

Cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 16/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐăkTô truy tố bị cáo A B về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo các điểm a, b, c khoản 2 điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm a, b, c khoản 2 điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 101, khoản 1 điều 54 xử phạt bị cáo từ 2 đến 3 năm tù. Miễn án phí hình sự cho bị cáo.

Lời nói sau cùng: Bị cáo biết việc làm của bị cáo là vi phạm pháp luật xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ĐăkTô, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐăkTô, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của gia đình người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì và cũng không khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi của bị cáo thể hiện: Vào khoảng 20 giờ ngày 14/3/2019 bị cáo A B sinh ngày 18/5/2001 không có giấy phép lái xe theo quy định; điều khiển xe mô tô không đảm bảo về an toàn kỹ thuật; trong hơi thở có nồng độ cồn vượt mức quy định và sau khi gây tai nạn giao thông đã bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm không cứu giúp người bị nạn đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đượng bộ” quy định tại các điểm a, b, c khoản 2 điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với kết quả khám nghiệm phương tiện;

khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử thi; phù hợp với nội dung vụ án mà Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐăkTô đã truy tố.

[3] Bị cáo A B điều khiển xe mô tô BKS 29R8-9472 là loại xe có dung tích xi lanh trên 50cm3 trở lên yêu cầu phải có giấy phép lái xe, tại thời điểm xảy ra tai nạn bị cáo chưa được cấp giấy phép lái xe theo quy định. Xe mô tô A B điều khiển tham gia giao thông không đảm bảo quy định về an toàn kỹ thuật, xe bị độ chế nhiều bộ phận, hệ thống đèn chiếu sang không đảm bảo; điều khiển xe mô tô khi trong hơi thở có nồng độ cồn vượt mức cho phép đã vi phạm khoản 4, khoản 8, khoản 9, khoản 17 điều 8 Luật giao thông đường bộ. Sau khi gây tai nạn giao thông bị cáo đã không cấp cứu nạn nhân mà quay xe chạy để trốn tránh trách nhiệm.

Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại các điểm a, b, c khoản 2 điều 260 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐăkTô truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của người bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại thời điểm phạm tội bị cáo chưa đủ tuổi thành niên (17 tuổi 9 tháng 24 ngày) vì vậy bị cáo được hưởng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên theo quy định tại điều 91, điều 101 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận tội; Bị cáo đã chủ động, tích cực tác động đến gia đình bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 7.170.000 đồng; người bị hại có một phần lỗi khi trên đường về nhà do mệt nên đã nằm nghỉ ngay trên mép đường lưu thông của bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 điều 51, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, áp dụng khoản 1 điều 54 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo với mức thấp nhất của khung 2 điều 260 đối với bị cáo.

Anh NLC 1 là người ngồi sau xe bị cáo, khi xảy ra tai nạn có ngả xuống đường nhưng không bị thương tích, anh NLC 1 không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của gia đình người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 xe mô tô BKS 29R8 - 9472 và 01 đăng ký xe mang tên Nguyễn Thế Thêm. Quá trình điều tra xác định ông Nguyễn Thế Thêm đã bán chiếc xe đó từ lâu, bị cáo mua lại chiếc xe mô tô nói trên từ ông A Vul vào khoảng tháng 3 năm 2019 với giá 1.000.000đ. Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án và phải chịu án phì hình sự theo quy định của pháp luật, tuy nhiên bị cáo thuộc diện hộ nghèo; có hộ khẩu thường trú tại xã đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Vì vậy, cần xem xét để miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ Điểm a, b, c khoản 2 điều 260; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Khoản 1 điều 54; Điều 91; Điều 101; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Tuyên bố bị cáo A B phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Xử phạt bị cáo A B 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

* Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của gia đình người bị hại không yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1 điều 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của gia đình người bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền .kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (16/10/2019),

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Tô - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về