Bản án 102/2017/HSST ngày 25/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 102/2017/HSST NGÀY 25/09/2017 TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/9/2017, tại hội trường Toà án nhân dân thị xã Phổ Yên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 86/2017/HSST ngày 08/9/2017; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/QĐXX-ST ngày 11/9/2017 đối với bị cáo:

Bùi Văn Nh; Tên gọi khác: không; sinh năm 1973.

Nơi cư trú: thôn Lập Trí, xã Minh Trí, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; nghề nghiệp: làm ruộng; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án số 17/2007/HSST ngày 20/03/2007, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, Hà Nội xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội: “Đánh bạc” (với số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 2.882.000đồng).

Con ông Bùi Văn L (đã chết) và bà Phạm Thị L; gia đình có 06 anh em, bị cáo là có thứ năm; có vợ là Nguyễn Thị C, sinh năm: 1974; vợ chồng có 02 con chung, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2000.

Bị cáo bị giam giữ từ ngày 09/6/2017 đến nay, tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

* Người làm chứng:

1. Đào Ngọc Th, sinh năm 1987; trú quán: Thôn Hiền Lễ, xã Cao Minh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Vắng mặt.

2. Lê Hồng Th, sinh năm 1965; trú quán: xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

3. Đàm Văn B, sinh năm 1989; trú quán: xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 9 giờ 00 phút, ngày 09/6/2017, Tổ công tác của Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phổ Yên phối hợp với Công an xã Trung Thành đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên phát hiện bắt quả tang đối tượng Bùi Văn Nh đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình bắt giữ phát hiện thu giữ tại túi quần bên trái Nhất đang mặc 01 gói giấy màu trắng, bên trong chứa chất rắn màu trắng đục (theo Nh khai là Hêrôin). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Văn Nh, thu giữ niêm phong vật chứng theo quy định.

Quá trình điều tra xác định: Do nghiện ma túy nên khoảng 8 giờ 30 phút ngày 09/6/2017, Bùi Văn Nh từ nhà ở thôn Lập Trí, xã Minh Trí, Sóc Sơn, Hà Nội đi xe ô tô khách đến khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên để mua ma túy sử dụng. Khi đi đến khu vực nhà máy sữa ELOVI thuộc xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên thì Nh xuống xe gặp Đào Ngọc Th (sinh năm 1987, trú tại thôn Hiền Lễ, xã Cao Minh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đều là bạn nghiện). Nh, Th rủ nhau đến xóm Kim Tỉnh để mua ma túy sử dụng, Th đèo Nh bằng xe mô tô của Thu, BKS 88H1-114.31, trên đường đi Th đưa cho Nh 150.000đ cùng mua ma túy. Khi cả hai đi đến xóm Kim Tỉnh, Trung Thành thì dừng xe ở một ngõ bên phải cạnh đường Quốc lộ 3 cũ hướng Hà Nội, Thái Nguyên, Nhất đi bộ vào trong ngõ thì nghe thấy có một người nói từ trong một ngôi nhà bên tay phải bảo Nhất để tiền dưới nền đất và đi vào đầu ngõ lấy ma túy (Nh làm theo sự chỉ dẫn của người này). Khi mua được ma túy Nh để trong túi quần bên trái đang mặc và cùng Th đi theo hướng Thái Nguyên – Hà Nội, đi được khoảng 200m thì Th dừng xe máy sát lề đường bên phải để mua thuốc lá, còn Nh ngồi trên xe đợi thì bị Công an thị xã Phổ Yên phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên.

Tiến hành mở niêm phong cân trọng lượng số chất bột thu giữ của Bùi Văn Nh xác định: Gói niêm phong được thu giữ có ký hiệu A bên trong có 01 gói giấy màu trắng chứa chất rắn màu trắng đục có trọng lượng 0,159gam (đã trừ bì).

Tại bản Kết luận giám định số: 735/KL-PC54 ngày 15/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Chất rắn màu trắng đục thu giữ của Bùi Văn Nh là chất ma túy, loại Hêrôin, có trọng lượng (khối lượng): 0,159 gam.

Bản cáo trạng số 91/KSĐT-MT ngày 07/9/2017 của Viện kiểm sát nhân nhân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Bùi Văn Nh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999.

Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 (tương ứng với khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015), xử phạt: Bùi Văn Nh từ 24- 30 tháng tù.

* Hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mục đích mua ma túy về sử dụng, không có hành vi vụ lợi nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

* Vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu N1 do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên hoàn lại sau giám định, ghi “Hoàn lại 0,097gam”

Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo thừa nhận việc truy tố và xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Lời nói cuối cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà là khách quan, thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của người làm chứng, với vật chứng thu được và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định: Vào hồi 9 giờ 00 phút ngày 09/6/2017, tại khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, tổ công tác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên đã phát hiện, bắt quả tang Bùi Văn Nh đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy tại túi quần bên trái của Nhất đang mặc, có tổng trọng lượng 0,159 gam, qua giám định là chất Hêrôin, mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán.

[3] Hành vi, ý thức của Bùi Văn Nh đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS. Bản cáo trạng số 91/KSĐT - MT ngày 07/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên đã truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Nội dung điều luật quy định như sau:

1. Người nào tang trữ trái phép chất ma tuý thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy... thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”

Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017 thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13...”.

Tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: ….“Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn …và quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật có hiệu lực thi hành”.

Như vậy tội phạm Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 tương ứng với quy định về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, tuy nhiên về khung hình phạt đối với tội này tại khoản 1 Điều 249 có khung hình phạt cao nhất là 05 năm tù giam, nhẹ hơn khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 cao nhất là 7 năm tù.

Vì vậy từ việc phân tích và so sánh trên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt theo hướng có lợi đối với bị cáo Bùi Văn Nhất.

[4] Xét tính chất vụ án thấy: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ ma tuý là mặt hàng cấm do nhà nước độc quyền quản lý, song do thỏa mãn nhu cầu của bản thân đã dẫn bị cáo vào con đường phạm tội, hành vi của bị cáo thể hiện tính coi thường pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ các con nghiện trên địa bàn. Do đó việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Xét nhân thân bị cáo thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng không chịu rèn luyện bản thân, đua đòi, mắc nghiện ma tuý đã dẫn bị cáo đến con đường phạm tội.

Bị cáo là người có nhân thân xấu. Năm 2007 bị Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, Hà Nội xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, 36 tháng thử thách về hành vi đánh bạc với số tiền sử dụng vào việc đánh bạc 2.882.000đồng. Theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo không bị coi tiền án kể cả khi chưa chấp hành xong các hình phạt khác của bản này, tuy nhiên bị cáo vẫn bị coi là người có nhân thân xấu

[6] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức được lỗi lầm của mình đã gây ra nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào.

[7] Hội đồng xét xử khi lượng hình thấy: Trong thời gian gần đây tình trạng phạm tội ma túy, đặc biệt là tệ nạn nghiện các loại ma túy tổng hợp trên địa bàn thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Để đảm bảo kỷ cương pháp luật và ngăn chặn tình trạng phạm tội trên địa bàn HĐXX cần phải có mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đen phòng ngừa chung. Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy là phù hợp được chấp nhận.

[8] Hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hiện không nghề nghiệp, phạm tội không mang tính chất vụ lợi nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[9] Vật chứng của vụ án thu giữ gồm: 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu N1 do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên hoàn lại sau giám định, ghi “Hoàn lại 0,097gam”.

Về nguồn gốc ma túy theo bị cáo Nh khai mua tại một ngôi trong ngõ thuộc địa phận xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, nhưng không xác định được người bán, Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

Đối với hành vi của Đào Ngọc Th dùng phương tiện là xe mô tô BKS 88H1-114.31(là xe của Th) đèo Nh đi mua ma túy, và cho Nh 150.000đồng để Nh mua ma túy. Tuy nhiên quá trình điều tra chưa có đủ căn cứ chứng minh Thu đưa tiền cho Nh để mua ma túy, mục đích cả hai sử dụng chung, lời khai của Th xác định không biết Nh đã mua được ma túy hay chưa. Từ các chứng cứ và tại liệu thu thập thấy chưa có đủ căn cứ chứng minh Th đồng phạm với Nh do đó cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên trả lại xe mô tô cho Th và tiếp tục điều tra và xử lý sau là hoàn toàn phù hợp, đúng quy định

Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn Nh phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194 (tương ứng khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015); điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999, xử phạt:

Bị cáo Bùi Văn Nh 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 09/6/2017.

Áp dụng Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Bùi Văn Nhất 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS; Điều 76 BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu N1 do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên hoàn lại sau giám định, ghi “Hoàn lại 0,097 gam”.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Phổ Yên với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên ngày 14/9/2017).

4. Án phí: Căn cứ điều 99 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nh phải chịu 200.000đ án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2017/HSST ngày 25/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:102/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về