Bản án 102/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 102/2019/HS-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2019/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2019/HSST-QĐ ngày 08/4/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Trần Duy K, sinh năm 1996 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: 23A ấp M, xã S thị xã A, tỉnh Bình Dương; tạm trú: 7/8 khu phố P2, phường B, thị xã K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1972 và con bà Trần Thị Kim T, sinh năm 1970; tiền sự: Ngày 06/5/2016 Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy thời gian 18 tháng, theo quyết định số 105 đến ngày 25/5/2017 được miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lí hành chính còn lại, theo quyết định số 586; tiền án: Không có, bị bắt tạm giam ngày 18/12/2018, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Trần Thị Kim Y, sinh năm 1974; địa chỉ: 7/8 khu phố P2, phường B, thị xã K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Trần Duy K sử dụng ma túy, khoảng 17 giờ ngày 18/12/2018, K sử dụng điện thoại di động Oppo A38, sim số 0923.540.585 liên lạc với người tên Ty (không rõ nhân thân) mua 200.000 đồng ma túy và hẹn địa điểm giao tại ngã ba Cây Điệp, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Sau đó K điều khiển xe mô tô Airblade màu đen, biển số 61D1-917.85 đến chỗ hẹn nhận ma túy rồi đi về, khi lưu thông đến đường Lê Hồng Phong khu phố Đông Thành, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An bị lực lượng Công an tỉnh Bình Dương kết hợp công an phường Tân Đông Hiệp dừng xe kiểm tra hành chính sau đó lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang đối với K.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển số 61D1 - 917.85; 01 điện thoại di động Oppo A38 màu đen sim số 0923.540.585 và 0927.583.341.

Kết luận giám định số 58/MT-PC09 ngày 20/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu tinh thể gửi giám định thu giữ từ bị cáo K là ma túy có khối lượng 0,1248 gam loại Methamphetamine.

Vật chứng đã trả lại chủ sở hữu: Xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển số 61D1-917.85 trả cho chị Trần Thị Kim Y (chị Y cho bị cáo K mượn xe và không biết bị cáo K sử dụng xe vào việc phạm tội); trả sim điện thoại sim số 0927.583.341 cho bị cáo K do không liên quan đến việc phạm tội.

Cáo trạng số 108/CT-VKS ngày 22/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Trần Duy K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo K từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định, sim điện thoại số 0923.540.585. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A38.

Bị cáo K không tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án bị cáo K nói lời sau cùng xin giảm nhẹ mức án để sớm về gia đình, xã hội làm người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Ngày 18/12/2018, bị cáo Nguyễn Trần Duy K mua của người tên Ty (không rõ nhân thân) 01 liều ma túy giá 200.000 đồng để sử dụng, đến 17 giờ 30 cùng ngày khi cầm ma túy lưu thông trên đường Lê Hồng Phong thuộc khu phố Đông Thành, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương bị bắt giữ. Kết quả giám định chất tinh thể màu trắng thu giữ từ K là Methamphetamine có khối lượng 0,1248 gam. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Điều 249 Tội tàng trữ trái phép chất ma túy Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a)...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR -11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam;

Như vậy, hành vi bị cáo K cất giữ ma túy (Methamphetamine) có khối lượng 0,1248 gam đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 108/CT-VKS ngày 22/3/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên ngày hôm nay đối với bị cáo K là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo K không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo K thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo K không có nghề nghiệp ổn định, sử dụng ma túy trong thời gian dài, bản thân đã bị đưa đi cai nghiện bắt buộc, sau đó lại tiếp tục sử dụng ma túy thể hiện sự không hướng thiện cũng như chấp hành pháp luật của bản thân.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm bị cáo Nguyễn Trần Duy K bị truy tố, xét xử là tội phạm nghiêm trọng, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo K gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo K mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy, sim số điện thoại 0923.540.585 vật nhà nước cấm lưu hành, liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy. Đối với điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A38 bị cáo K sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[4] Trong vụ án còn có người tên Ty (không rõ nhân thân) bán ma túy cho bị cáo K. Công an thị xã Dĩ An tách xác minh xử lý sau là phù hợp.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng. Xét, quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận. Riêng mức hình phạt đối với bị cáo K có phần nghiêm khắc, Hội đồng xét xử xử mức hình phạt bị cáo K thấp hơn mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo K phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trần Duy K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trần Duy K 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/12/2018.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đã niêm phong số 58/PC09 bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng hoàn lại sau giám định 0,0944 gam; 01 sim điện thoại số 0923.540.585; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A38. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/3/2019

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14. Bị cáo Nguyễn Trần Duy K phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:102/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về