Bản án 103/2018/HSST ngày 17/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 103/2018/HSST NGÀY 17/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 04 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 107/2018/HSST ngày 06 tháng 04 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/HSST-QĐ ngày 06 tháng 04 năm 2018 đối với bị cáo:

LÊ VĂN S, sinh năm 1991 tại Bắc Giang; Nơi cư trú: Thôn V, xã Đ, huyện H, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Con ông: Lê Văn Đ và bà Nguyễn Thị T; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt quả tang ngày 07/01/2018, tạm giữ ngày 07/01/2018, tạm giam ngày 13/01/2018. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số

2 - Công an Thành phố Hà Nội - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 07/01/2018, tại khu vực nghĩa trang Giáp Tứ thuộc tổ 42, phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội, Công an quận Hoàng Mai, phát hiện, bắt quả tang Lê Văn S có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của S 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 01 gói nhỏ bọc giấy bạc thước 1 x 2cm chứa chất bột màu trắng.

Theo Kết luận giám định số 461/KLGĐ - PC54 ngày 15/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội, chất bột màu trắng bên trong gói giấy bạc là ma túy loại Heroin, khối lượng 0,335gam.

Tại cơ quan điều tra, Lê Văn S khai nhận: Khoảng 15 giờ 00 ngày 07/01/2018, S đi bộ đến khu vực nghĩa trang Giáp Tứ, thuộc tổ 42, phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, S gặp và mua của  một người phụ nữ không quen biết 01 gói ma túy để trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long với giá 200.000 đồng. Mua xong, S cất ma túy  vào túi áo khoác đang mặc và định đi tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp đi thì bị cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện, thu giữ. S không có mục đích bán lại số ma túy này cho người khác.

Tại bản cáo trạng số 112/CT-VKS-HM  ngày 03 tháng  04 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai truy tố Lê Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt: Lê Văn S từ 20 đến 24 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói giấy bạc bên trong chứa 0,335 gam Heroin, trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Nokia 1280 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án

Tại phiên toà: Bị cáo Lê Văn S giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là đúng

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra Công an quận Hoàng Mai, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai thu thập; về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàng Mai, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thu thập, thực hiện đều hợp pháp.

Ngày 07/01/2018, Lê Văn S đã có hành vi cất giữ trái phép 0,335 gam heroin nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích bán lại cho người khác. Đối chiếu Pháp luật, Lê Văn S đã phạm tội “Tàng  trữ trái phép  chất ma túy”  theo quy định tại Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo tàng trữ 0,335 gam Heroin, thuộc trường hợp quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ Pháp lý.

Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Lê Văn S, do không xác định  được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

Ma túy là hiểm hoạ của xã hội: bởi nó không chỉ là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội, làm thiệt hại kinh tế, gây suy thoái đạo đức và lối sống, mà còn làm phát sinh nhiều tội phạm nguy hiểm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Do tính chất nghiêm trọng của vụ án, để đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng, cần thiết phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự.

Về nhân  thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Để cải tạo, giáo dục bị cáo và làm bài học răn đe người khác, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét tình tiết: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo để giảm một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

Về hình phạt  bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Về vật chứng:  01bao niêm phong bên trong  có 0,335 gam Heroin thu giữ của Lê Văn S chất độc hại, không sử dụng được nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Ngoài ra, khi bắt giữ bị cáo, cơ quan công an còn thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280. Xét đây là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Về quyền  kháng  cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

- Căn cứ Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản  lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử phạt: Lê Văn S 24 (hai bốn) tháng  tù về tội “Tàng  trữ trái phép  chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 07/01/2018.

Về vật  chứng (Hiện đang  lưu giữ tại  Chi cục thi hành  án  dân  sự quận Hoàng Mai theo biên bản giao nhận vật chứng số 146 ngày 10/04/2018):

- Tịch thu tiêu hủy 01 bao niêm phong bên trong có 0,335gam Heroin thu giữ của Lê Văn S.

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen có số Imei: 355930045773180 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2018/HSST ngày 17/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:103/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về