Bản án 105/2017/HSST ngày 25/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 105/2017/HSST NGÀY 25/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/9/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng (Địa chỉ: 48 đường L, quận K, thành phố Đà Nẵng), xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 117/2017/TLST-HS ngày 08/9/2017 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Nguyên Đinh L; Tên gọi khác: Không, sinh ngày: 27/12/1990 tai thành phố Đa Năng; nơi ĐKNKTT: Tô 121 phương H, quân K, thành phố Đà Nẵng; chô ơ: Tô 121 phương H, quân K, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; nghề nghiệp: Lao đông phô thông; con ông: Nguyên Đinh L (sinh năm: 1970) va ba Vo Thi L (sinh năm: 1972); gia đinh co 03 anh em. Bi cáo la con thư nhất;

Tiền án, tiền sự: Chưa;

Bi bắt tạm giam ngày 01/6/2017. (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Kim A - sinh năm 1977; trú tại: số 12 đường H, phường H, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. (Có mặt).

2. Bà Võ Thị L1 - sinh năm 1973; trú tại: tổ 121 phường H, quận K, thành phố Đà Nẵng. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 01/6/2017, tại khu vực bờ kè đối diện số 671 đường T, phường H, quận K, thành phố Đà Nẵng, lực lượng Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đình L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của L: 01 gói ny lon bên trong chứa tinh thể màu trắng (L khai là ma túy đá), niêm phong ký hiệu G1, 01 ĐTDĐ Sam sung số imei 358548062232521/01, 01 xe mô tô Exciter BKS: 43D1-30128, 01 cân điện tử hiệu Pocket, 01 cây xúc bằng nhựa và 500.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: từ ngày 30/5/2017 đến ngày 01/6/2017, Nguyễn Đình L đã mua ma túy P (không rõ lai lịch) và bán lại cho Đỗ Thế T (sinh năm: 1987, tru: 282/15 đường D, phường C, quận K, thành phố Đa Năng) 01 lần; bán cho V (không rõ lai lịch) 01 lần, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 18 giờ ngày 30/5/2017, tại trước quán D 2, đường T, thành phố Đà Nẵng, L bán cho Đỗ Thế T 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng. Ma túy mua về Đỗ Thế T đã sử dụng hết.

Lần thứ hai: Khoảng 19 giờ ngày 01/6/2017, V (không rõ lai lịch) điện thoại hỏi mua của L 2.000.000 đồng ma túy, L đồng ý bán và hẹn giao dịch tại trước khách sạn L - số 671 đường T, thành phố Đà Nẵng. Khoảng 20 giờ cùng ngày, L đến số 671 đường T, thành phố Đà Nẵng để bán ma túy cho V nhưng chưa bán được thì bị bắt quả tang.

Ngoài ra, L khai nhận vào khoảng 22 giờ ngày 30/5/2017, tại gần cầu P, thành phố Đà Nẵng, L còn bán 300.000 đồng ma túy cho Q (không rõ lai lịch) nhưng qua điều tra không thu giữ được số ma túy trên, không xác định được lai lịch của Q nên không đủ cơ sở để kết luận.

Tại Kết luận giám định số 352/GĐ-MT ngày 08/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: “Mẫu tinh thể gửi giám định có trọng lượng là 0,759 gam, có Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, số thứ tự 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ”.

*Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình L thừa nhận hành vi phạm tội của mình là tàng trữ trái phép chất ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê khởi tố, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê truy tố, Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đưa xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là đúng tội, đúng pháp luật.

* Tại cáo trạng số 116/QĐ-KSĐT ngày 07/9/2017 Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu giữ nguyên cáo trạng đã truy tố bị cáo và căn cứ vào tính chất, hành vi thực hiện tội phạm, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1,2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Đình L từ 07 đến 08 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà Nước 01 ĐTDĐ hiêu Samsung mau đen co số Imei: 358548062232521/01 và 500.000đ;

- Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà Nước chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter mau xanh đen, biển kiểm soát 43D1-301.28 do Nguyễn Đình L đứng tên chủ sở hữu;

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 cân điên tư hiêu Pocket, 01 cây xuc bằng nhưa.

Bị cáo Nguyễn Đình L nói lời nó sau cùng: Bị cáo thực sự ăn năn, hối cải và hứa sẽ cải tạo tốt để sớm trở về tái hòa nhập cộng đồng làm người tốt cho xã hội, mong Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

 “Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:”

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành rố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Đình L nhận biết việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do hám lợi mà bị cáo đã bất chấp pháp luật đứng ra mua đi bán lại nhiều lần trái phép chất ma túy để kiếm lời, để bán ma túy bị cáo đã sử dụng ĐTDĐ liên lạc, trao đổi giá cả và hẹn nơi giao hàng, nguồn ma túy có được theo L khai là từ ngày 30/5/2017 đến ngày 01/6/2017, L mua ma túy P (không rõ lai lịch) để bán lại kiếm lời, trong khoảng thời gian từ ngày 30/5 đến ngày 01/6/2017, L đã bán 02 lần ma túy, lần thứ nhất bán cho Đỗ Thế T 01 gói ma túy với giá 300.000.000đ tại trước quán D 2, đường T, thành phố Đà Nẵng; lần thứ 2 vào khoảng 20 giờ ngày 01/6/2017, tại tại khu vực bờ kè đối diện số 671 đường T, phường H, L liên hệ bán ma túy cho một người tên V (không rõ lai lịch) đến để bán ma túy nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng Công an quậnThanh Khê bắt quả tang thu giữ 01 ny lon bên trong có chứa tinh thể màu trắng ký hiệu G1 (L khai là ma túy đá). Theo Kết luận giám định số 352/GĐ-MT ngày 08/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: “Mẫu tinh thể gửi giám định có trọng lượng là 0,759 gam, có Methamphetamine. Hành trên của bị cáo Nguyễn Đình L đã phạm vào tội "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo Nguyễn Đình L đã nhiều lần mua đi bán lại trái phép chất ma túy cho các đối tượng nghiện để kiếm lời là đã phạm vào tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

 [3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Đình L đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến chính sách quản lý độc quyền về chất ma túy của Nhà nước. Nguy hiểm hơn, bị cáo đã tiếp tay cho những tệ nạn xã hội, cũng như nguyên nhân hiểm họa gây ra căn bệnh thế kỹ của nhân loại HIV.

- Về nhân thân: Căn cứ vào trích lục tiền án, tiền sự của Phòng hồ sơ Công an thành phố Đà Nẵng và lý lịch bị cáo thể hiện: Bị cáo Nguyễn Đình L không có tiền án tiền sự.

- Tình tiết tăng năng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo định quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Qúa trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi bị công an phát hiện bị cáo tàng trữ ma túy trong người bị cáo đã tự khai ra là mình đang đi bán ma túy nhưng chưa bán thì bị bắt quả tang thể hiện sự biết ăn năn hối cải của bị cáo, trong quá trình điều tra bị cáo đã tự thú khai ra lần bán ma túy trước đó mà Cơ quan điều tra chưa phát hiện; bị cáo đã hoàn thành nghĩa nghĩa vụ quân sự về địa phương. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại o, p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

* Về xử lý vật chứng:

Khi bị bắt quả tang, Cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo 01chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter mau xanh đen, biển kiểm soát 43D1-301.28 do Nguyễn Đình L đứng tên chủ sở hữu; 01 ĐTDĐ hiêu Samsung mau đen co số Imei: 358548062232521/01, 01 cân điên tư hiêu Pocket, 01 cây xuc bằng nhưa, 01 giấy đăng ky xe mô tô mang tên Nguyên Đinh L va 500.000 đồng.

Xét thấy:

- Đối với 01 ĐTDĐ hiêu Samsung mau đen co số Imei: 358548062232521/01 và 500.000đ, bị cáo dùng liên lạc mua bán ma túy và tiền thu lợi bất chính nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà Nước.

- Đối với 01 gói ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì số 352/GĐ-MT ngày 08/06/2017 của Phòng KTHS CATP Đà Nẵng xét đây là vật cấm lưu hành nên cần truyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 cân điên tư hiêu Pocket, 01 cây xuc bằng nhưa bị báo dùng vào việc mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter mau xanh đen, biển kiểm soát 43D1-301.28 do Nguyễn Đình L đứng tên chủ sở hữu. L khai, vào ngày 22/02/2016, L bán xe cho chị Nguyễn Thị Kim A với số tiền 29.000.000 đồng nhưng chị A chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Sau khi mua, theo chị A khai là gửi xe lại cho bà Võ Thị L1 (Là mẹ ruột của L). Ngày 01/6/2017, L mượn xe đi công việc, bà L1 và chị A không biết việc L mượn xe sử dụng làm phương tiện phạm tội, tại phiên tòa hôm nay, chị A xin được nhận lại chiếc xe trên. Xét thấy, theo quy định của pháp luật thì việc mua bán tài sản trên phải có điều kiện (phải qua công chứng...) và pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu tài sản. Xét thấy việc mua bán trên là chưa phù với quy định pháp và thực tế hiện tại bị cáo là người sở hữu hợp pháp đối với tài sản trên và đã sử dụng chiếc xe trên để làm phương tiện mua bán trái phép chất ma túy, đây là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà Nước. Còn đối với việc mua bán trên sau này bà A có yêu cầu sẽ khởi kiện bằng vụ án dân sự khác.

 (Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/9/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra quận Thanh Khê với Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng).

Đối với Đô Thế T mua ma túy để sử dụng trái phép chất ma túy, Công an quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt hành chính là có căn cứ.

Lời phát biểu đề nghị áp dụng pháp luật và mức hình phạt của Kiểm sát viên đối với bị cáo Nguyễn Đình L là có căn cứ pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

* Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000đ theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đình L phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy".

1/ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự;

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình L 07 (Bảy năm) 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam 01/6/2017.

2/ Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà Nước 01 ĐTDĐ hiêu Samsung mau đen co số Imei: 358548062232521/01 và 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng);

- Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà Nước chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter mau xanh đen, biển kiểm soát 43D1-301.28 do Nguyễn Đình L đứng tên chủ sở hữu, theo Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số: 006615 do Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng cấp ngày 07/8/2015;

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì số 352/GĐ-MT ngày 08/06/2017 của Phòng KTHS CATP Đà Nẵng;

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 cân điên tư hiêu Pocket, 01 cây xuc bằng nhưa.

 (Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/9/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra quận Thanh Khê với Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng).

3/Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc "Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí lệ phí Tòa án" của Uỷ ban thường vụ quốc hội.

Xử: Buộc bị cáo Nguyễn Đình L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Án xử công khai, báo cho bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2017/HSST ngày 25/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về