Bản án 105/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 105/2017/HSST NGÀY 28/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 28 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở TAND huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 105/2017/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị X; tên gọi khác: Tòng Thị X; sinh năm: 1972; Nơi ĐKHKTTvà chỗ ở hiện nay: Bản S, xã Q, huyện T, tỉnh Đ; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá: Không biết chữ; con ông: Tòng Văn T, sinh năm 1953; con bà: Tòng Thị N (đã chết); bị cáo có chồng là Lò Văn H, sinh năm 1970 và có 03 người con; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/5/2017 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo có bà: Lò Thị Khánh Hà, trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt).

* Người phiên dịch cho bị cáo có bà: Tòng Thị Thơ; trú tại: Bản Cộng 2, xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên (có mặt).

* Người có nghĩa vụ liên quan: Họ và tên: Lò Văn T, sinh năm 1981. Trú tại: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Đ.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lò Thị X bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố về hành vi phạm tội như sau: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 15/5/2017, tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo đang làm nhiệm vụ tại bản S, xã Q, huyện T, bắt quả tang Lò Văn T đang mua bán trái phép chất ma túy tại nhà Lò Thị X, thu giữ trong túi quần đang mặc của Lò Văn T 01 gói hê rô in có trọng lượng 0,04 gam, thu giữ của Lò Thị X 02 gói Hêrôin có trọng lượng 0,2 gam. T và X đều khai nhận số Hêrôin thu giữ của T là của X bán cho T với giá 50.000đ.

Quá trình điều tra đã xác định được: Khoảng 11 giờ ngày 12/5/2017, X đang ở nhà một mình thì có một người đàn ông không quen biết đến nhà X và hỏi X có mua Hêrôin không, người đó bán rẻ cho. X nhất trí mua và được người đó bán cho 01 gói Hêrôin với giá 100.000đ. Việc mua bán chỉ có hai người biết và không cân xác định trọng lượng.

Sau khi mua được Hêrôin, X dùng tay chia số Hêrôin trên thành 4 phần và gói lại bằng các mảnh ni lông và cất giấu trong cạp quần đang mặc để có ai hỏi mua thì bán cho tiện. Đến khoảng 14 giờ ngày 13/5/2017, có Lò Văn T đến hỏi mua và X đã bán cho T 01 gói Hêrôin giá 50.000đ. Tiếp đến khoảng 13 giờ 45 phút ngày 15/5/2017, Tương lại đến hỏi mua 01 gói Hêrôin. Khi X và Tương vừa mua bán xong thì tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang, thu giữ trong túi quần Tương đang mặc 01 gói Hêrôin. Còn X tự giác giao nộp 02 gói Hêrôin còn lại.

Cùng ngày, cơ quan điều tra đã tiến hành mở niêm phong và xác định trọng lượng vật chứng. Số chất bột nghi Hêrôin thu được của Lò Thị X được xác định trọng lượng là 0,2 gam. Số Hêrôin thu được của Lò Văn T được xác định trọng lượng là 0,04 gam. Cơ quan điều tra đã gửi mẫu giám định đối với vật chứng thu được của Lò Thị X và Lò Văn T.

Tại bản Kết luận giám định số: 454/GĐ-PC-54 ngày 30/5/2017 và 455/GĐ- PC-54 ngày 31/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu vật gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T và Lò Thị X là chất ma túy; loại: Hêrôin.

Tại bản Cáo trạng số: 80/QĐ - VKS -HS ngày 06/9/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Lò Thị X về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS. Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Lò Thị X từ 07 năm đến 07 năm 6 tháng tù. Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS, tuyên hủy 01 gói niêm phong Hêrôin; trả lại cho bị cáo 1.150.000đ; trả lại cho Lò Văn T 50.000đ; tịch thu sung quĩ nhà nước 100.000đ do bán Hêrôin mà có. Áp dụng Điều 99 BLTTHS, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH, miễn án phí HSST cho bị cáo. Không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 194 BLHS vì bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.

Người bào chữa nhất trí với điểm khoản điều luật mà VKS truy tố, tình tiết giảm nhẹ cũng như mức hình phạt mà VKS đề nghị. Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 điều 194; điểm p khoản 1 điều 46 BLHS xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người có nghĩa vụ liên quan.

XÉT THẤY

Bị cáo Lò Thị X bị bắt quả tang khi đang bán trái phép chất ma túy cho Lò

Văn T. Cơ quan điều tra đã thu giữ được của Lò Văn T 01 gói Hêrôin do T vừa mua của X, thu giữ của X 02 gói Hêrôin có trọng lượng 0,2 gam. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận, số Hêrôin này bị cáo mua của một người đàn ông bị cáo không quen biết về nhằm mục đích bán lẻ thu lời. Bị cáo đã bán cho Tương 02 lần vào ngày 13 và 15/5/2017. Lò Văn T cũng thừa nhận việc mua Hêrôin của Lò Thị X hai lần vào các ngày 13 và 15/5/2017 như bị cáo X đã khai.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang; biên bản mở niêm phong và xác định trọng lượng vật chứng; bản kết luận giám định, biên bản hỏi cung bị can, lời khai Lò Văn T cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi bán trái phép hê rô in nhiều lần của Lò Thị X đã phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Tội phạm được qui định tại điểm b khoản 2  Điều 194 BLHS. Tại khoản 2 Điều 194 BLHS qui định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ 07 đến 15 năm:

...b, Phạm tội nhiều lần.

Bởi vậy, VKSND huyện Tuần Giáo truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản nêu trên là chính xác. Về đề nghị của VKS, người bào chữa cho bị cáo đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo và hướng xử lý các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và có căn cứ nên được chấp nhận.Về đề nghị mức hình phạt của người bào chữa đối với bị cáo Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc cho phù hợp.

Hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sự độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển giống nòi của dân tộc. Hành vi mua Hêrôin về để bán của bị cáo là nguyên nhân gây nên tệ nạn nghiện ma túy, loại tệ nạn đang gây nhức nhối trong toàn xã hội bởi sự hủy hoại về kinh tế, sức khỏe, tính mạng con người của loại độc dược này nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh.

Xét tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và nhân thân đối với bị cáo thấy: Bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo qui định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS.

Bản thân bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã Q, huyện T, tỉnh Đ. Bản thân không được học hành, ở nhà lao động phổ thông. Đến tuổi trưởng thành lập gia đình.

Là người phụ nữ tuổi còn trẻ, có sức khỏe nhưng bị cáo không chịu rèn luyện bản thân, lao động chân chính để có thu nhập. Vì hám lợi, lười lao động bị cáo đã phạm tội. Điều đó chứng tỏ sự coi thường pháp luật của bị cáo. Bởi vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo.

Bị cáo không có điều kiện về kinh tế nên không phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 5 Điều 194 BLHS.

Đối với người đàn ông đã bán Hêrôin cho bị cáo, bị cáo khai không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý.

Đối với Lò Văn T là người đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Công an xã Q đã xử lý vi phạm hành chính đối với Lò Văn T hình thức cảnh cáo là phù hợp.

Vật chứng vụ án là 01 gói niêm phong Hêrôin, cần áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 BLTTHS tuyên tịch thu để hủy.

Đối với số tiền 1.300.000 đ cơ quan điều tra tạm giữ là của bị cáo, trong đó có 100.000đ do bán ma túy mà có của bị cáo cần tịch thu sung quĩ nhà nước. Trả cho Lò Văn T 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) vì không liên quan đến việc phạm tội.

Trả lại cho bị cáo 1.150.000đ (một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).

Bị cáo được miễn án phí HSST theo qui định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Thị X phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy

 

2. Hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS, xử phạt bị cáo Lò Thị X 07 ( bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/5/2017.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS tuyên tịch thu để hủy 01 gói Hêrôin được niêm phong; tịch thu sung quĩ nhà nước 100.000đ (một trăn nghìn đồng); trả lại cho bị cáo 1.150.000đ (một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng); trả cho Lò Văn T 50.000đ (năm mươi nghìn đồng). Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05/9/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

4. Án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/9/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về