Bản án 105/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 105/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 117/2018/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Đàm Bảo H (tên thường gọi là BL); Sinh ngày: 20/3/1975; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 372/4 đường PVC, Phường D, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 154/28/11A đường số N (nay là đường HN), Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 1/12 (bị cáo khai chỉ biết ký tên và ghi họ tên); Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hà Tô H (chết) và bà: Đàm N; Có vợ: Là bà Trần Thị Tố T và con: Có 02 người con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 05/9/2018.

Nhân thân:

- Ngày 25/11/1998, bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 tháng tù về tội « Cướp giật tài sản của công dân » (Bản án số: 281/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/8/1999 (Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số: 876/GCN của Trại tạm giam Bố Lá).

- Ngày 08/4/2003, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội « Cướp giật tài sản » (Bản án số: 468/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/6/2006 (Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số: 213/GCN của Trại giam Cái Tàu). (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Anh S (C); Sinh năm: 1971; Trú tại: 14 Lô N, Cư xá PLD, Phường J, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 20 phút ngày 05/9/2018, tại trước nhà số 14N Cư xá PLD, Phường J, Quận 6, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 6 bắt quả tang Đàm Bảo H đang bán cho Nguyễn Văn Đ 01 bịch ma túy đá giá 200.000 đồng và đã thu giữ tại chỗ bịch ma túy này. Thấy Công an, H ném 01 bịch ma túy đá và số tiền 200.000 đồng xuống đường (ngay dưới chân H) rồi bỏ chạy vào căn phòng cuối cùng của nhà số 14N Cư xá PLD lấy tiếp 01 bịch ma túy đá ném qua cửa sổ ra ngoài hành lang thì bị bắt giữ. Tiến hành khám xét căn phòng, Công an còn thu giữ 02 gói tinh thể không màu để trong ca nhựa dưới bàn gỗ. Ngoài ra, Công an còn tạm giữ đối tượng có mặt tại chỗ là Trần Anh S và thu giữ của S 01 gói Heroine, 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia. Sau đó đã giao H, S cùng vật chứng nêu trên cho Công an Phường 8, Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Đàm Bảo H khai: Khoảng 14 giờ 50 phút ngày 05/9/2018, sau khi nhận được điện thoại của Nguyễn Văn Đ hỏi mua 02 bịch ma túy đá (01 bịch giá 200.000 đồng, 01 bịch giá 400.000 đồng), H qua khu vực cầu số 2 thuộc Phường 14, Quận 8 mua từ một người phụ nữ (không rõ lai lịch) 1 góc 4 ma túy đá giá 600.000 đồng và 02 gói ma túy giả với giá 300.000 đồng để pha chung với ma túy đá bán cho người nghiện. Sau đó, H đem 1 góc 4 ma túy về nhà số 154/28/11A đường số 41, Phường 16, Quận 8 phân thành 03 gói (01 gói giá 400.000 đồng, 01 gói giá 200.000 đồng và 01 gói H để sử dụng) rồi đem hết số ma túy này qua nhà của Trần Anh S tại số 14N Cư xá PLD. Đến 15 giờ 20 phút cùng ngày, H điện thoại kêu Đ đến trước nhà số 14N Cư xá PLD để bán 02 bịch ma túy cho Đ như thỏa thuận trước đó, nhưng do không có tiền nên Đ chỉ mua 01 bịch ma túy giá 200.000 đồng, sau khi giao bịch ma túy cho Đ và nhận 200.000 đồng từ Đ thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.

Trần Anh S khai: Khoảng 15 giờ 20 phút ngày 05/9/2018, S đang ở trong nhà số 14N Cư xá PLD thì thấy Đàm Bảo H (bạn quen biết ngoài xã hội) chạy vào nhà thì bị Công an đuổi theo bắt giữ. S xác nhận không biết việc H để 02 gói tinh thể không màu và 01 cân điện tử trong nhà của S. Còn 01 gói Heroin mà Công an thu giữ là của S mua về sử dụng, không liên quan gì đến H.

Qua điều tra, Nguyễn Văn Đ khai ngoài lần bị phát hiện bắt giữ, trước đó Đ đã mua ma túy của Đàm Bảo H 02 lần (01 lần vào ngày 01/9/2018, 01 lần vào ngày 02/9/2018), nhưng Đàm Bảo H không thừa nhận đã nhiều lần bán ma túy cho Đại. Cơ quan điều tra tiến hành cho Đàm Bảo H đối chất với Nguyễn Văn Đ, nhưng H không nhận có bán ma túy cho Đ vào các ngày 01/9/2018 và ngày 02/9/2018 như Đ đã khai.

Tại Kết luận giám định số: 1504/KLGĐ-H ngày 11 tháng 9 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:

- Gói 1: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Nguyễn Hữu Thiên Thành (người chứng kiến), Đàm Bảo H và hình dấu Công an Phường 10, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5419g (không phẩy năm bốn một chín gam), loại Methamphetamine.

- Gói 2: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Nguyễn Hữu Thiên Thành (người chứng kiến), Đàm Bảo H và hình dấu Công an Phường 10, Quận 6 gửi đến giám định, có khối lượng 11,8901g (một một phẩy tám chín không một gam), không tìm thấy ma túy.

- Gói 3: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Nguyễn Hữu Thiên Thành (người chứng kiến), Đàm Bảo H và hình dấu Công an Phường 10, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1938g (một phẩy một chín ba tám), loại Methamphetamine.

- Gói 4: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Nguyễn Hữu Thiên Thành (người chứng kiến), Nguyễn Văn Đ và hình dấu Công an Phường 10, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0508g (không phẩy không năm không tám gam), loại Methamphetamine.

- Gói 5: Bột màu trắng trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Nguyễn Hữu Thiên Thành (người chứng kiến), Trần Anh S và hình dấu Công an Phường 10, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0409g (không phẩy không bốn không chín gam), loại Heroine.

Đối với Trần Anh S do không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Công an Quận 6 đã thông báo về địa phương để xử lý hành chính. Còn Nguyễn Văn Đ và người phụ nữ bán ma túy cho Đàm Bảo H, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Đối với hành vi mua 11,8901 gam tinh thể không màu (H khai là ma túy giả) với dự định pha chung với ma túy đá bán cho người nghiện của Đàm Bảo H, không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự (vì H chưa thực hiện).

Tại Cáo trạng số: 109/CT-VKS.Q6 ngày 14 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đàm Bảo H về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Đàm Bảo H khai nhận chính bị cáo, đã thực hiện hành vi mua 1 góc 4 ma túy đá giá 600.000 đồng từ một người phụ nữ (không rõ lai lịch) ở khu vực cầu số 2, Phường 14, Quận 8 rồi đem về nhà phân thành 03 gói và sau khi bán cho Nguyễn Văn Đ 01 gói giá 200.000 đồng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang như nội dung bản cáo trạng nêu. Đối với Nguyễn Văn Đ thì bị cáo khai chỉ mới bán ma túy cho Đ lần đầu vào ngày bị bắt. Còn 02 gói ma túy giả, lúc đầu bị cáo mua định pha chung với ma túy thật bán, nhưng về suy nghĩ lại bị cáo sợ các con nghiện chê ma túy của bị cáo và sẽ không mua nên bị cáo không thực hiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đàm Bảo H như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Đàm Bảo H từ 04 năm đến 05 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» theo khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phạt tiền bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động có ghi chữ Iphone, số Imei: 355902064517186 và số tiền 200.000 đồng.

Tịch thu, tiêu hủy: 05 gói đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1504/2018/Q6, có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, người chứng kiến Nguyễn Hữu Thiên Thành (gói 1, gói 2 và gói 3 ghi tên Đàm Bảo H; gói 4 ghi tên Nguyễn Văn Đ; gói 5 ghi tên Trần Anh S); 01 cân điện tử màu đen ghi chữ Amput; 01 sim điện thoại số seri: 8401180151466714 OT.

Trả lại bị cáo Đàm Bảo H số tiền 100.000 đồng.

Trả lại ông Trần Anh S 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 353073/06/185348/7, số Imei 2: 353073/06/185349/5 (có sim điện thoại bên trong).

Lời nói sau cùng, bị cáo Đàm Bảo H nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Đàm Bảo H tại phiên tòa với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của Nguyễn Văn Đ, Trần Anh S và của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đàm Bảo H đã mua bán chất ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) có khối lượng 1,7865 gam (trong đó bán cho Nguyễn Văn Đ 01 gói ma túy ở thể rắn khối lượng 0,0508 gam), là phạm tội «Mua bán trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Đàm Bảo H không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Đàm Bảo H có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng do hám lợi, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Bị cáo Đàm Bảo H có nhân thân xấu, đó là ngày 25/11/1998, bị Tòa án nhân dân Quận 5 xử phạt 12 tháng tù về tội «Cướp giật tài sản của công dân»; ngày 08/4/2003, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội «Cướp giật tài sản». Mặc dù lần phạm tội này bị cáo đã được đương nhiên xóa án tích thì coi như chưa bị kết án, nhưng điều này cũng cho thấy tuy đã được cải tạo, giáo dục, bị cáo vẫn không chịu rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội mà ngược lại vẫn tiếp tục sống buông thả để ngày càng lún sâu vào con đường phạm tội.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Đàm Bảo H là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung.

[5] Và xét bị cáo Đàm Bảo H tại phiên tòa không thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo Đàm Bảo H theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Việc xử lý vật chứng: 200.000 đồng (trong số tiền 300.000 đồng) thu giữ của bị cáo Đàm Bảo H, là tiền do bị cáo phạm tội mà có, nên Hội đồng xét xử tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước cùng 01 chiếc điện thoại di động có ghi chữ Iphone, số Imei: 355902064517186 mà bị cáo dùng vào việc phạm tội theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 05 gói đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1504/2018/Q6, có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, người chứng kiến Nguyễn Hữu Thiên Thành (gói 1, gói 2 và gói 3 ghi tên Đàm Bảo H; gói 4 ghi tên Nguyễn Văn Đ; gói 5 ghi tên Trần Anh S); 01 cân điện tử màu đen ghi chữ Amput; 01 sim điện thoại số seri: 8401180151466714 OT, là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn số tiền 100.000 đồng (trong số 300.000 đồng) thu giữ của bị cáo Đàm Bảo H; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 353073/06/185348/7, số Imei 2: 353073/06/185349/5 (có sim điện thoại bên trong) thu giữ của Trần Anh S. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả tiền lại cho bị cáo H vì không đủ căn cứ xác định do bị cáo phạm tội mà có, trả điện thoại lại cho Trần Anh S vì không đủ căn cứ xác định S đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. (theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 152/PNK ngày 25 tháng 9 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL44 và Giấy nộp tiền vào tài khoản số: 01/2018 ngày 27 tháng 9 năm 2018 của Kho bạc Nhà nước Quận 6 - BL45)

[8] Đối với Trần Anh S, Viện kiểm sát xác định không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò là đồng phạm của Đàm Bảo H. Còn hành vi cất giữ 0,0409 gam Heroine để sử dụng, xét khối lượng ma túy mà S cất giữ sử dụng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, bản thân S mới vi phạm lần đầu (chưa có tiền án, tiền sự) và Công an Quận 6 đã thông báo về địa phương để xử lý hành chính, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với Nguyễn Văn Đ và người phụ nữ mà bị cáo Đàm Bảo H khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị lúc nào Cơ quan điều tra làm rõ giải quyết sau, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[9] Đối với hành vi mua 11,8901 gam tinh thể không màu với dự định pha chung với ma túy đá bán cho người nghiện của bị cáo Đàm Bảo H, Viện kiểm sát xác định không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự (vì H chưa thực hiện), do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[10] Bị cáo Đàm Bảo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Đàm Bảo H (BL) phạm tội: « Mua bán trái phép chất ma túy ».

- Căn cứ khoản 1 Điều 251; Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Đàm Bảo H (BL) 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/9/2018.

- Căn cứ khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Buộc bị cáo Đàm Bảo H nộp phạt 5.000.000 (năm triệu) đồng.

- Căn cứ điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động có ghi chữ Iphone, số Imei: 355902064517186 và 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 05 (năm) gói đã được niêm phong bên ngoài có ghi vụ số: 1504/2018/Q6, có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, người chứng kiến Nguyễn Hữu Thiên Thành (gói 1, gói 2 và gói 3 ghi tên Đàm Bảo H; gói 4 ghi tên Nguyễn Văn Đ; gói 5 ghi tên Trần Anh S); 01 (một) cân điện tử màu đen ghi chữ Amput; 01 (một) sim điện thoại số seri: 8401180151466714 OT.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trả lại bị cáo Đàm Bảo H 100.000 (một trăm ngàn) đồng.

Trả lại ông Trần Anh S 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 353073/06/185348/7, số Imei 2: 353073/06/185349/5 (có sim điện thoại bên trong).

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Đàm Bảo H phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. 

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2  Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại

Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Đàm Bảo H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về