Bản án 105/2019/HNGĐ-ST ngày 22/08/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng

TTOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 105/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại phòng xử án - Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 464/2019/TLST-HNGĐ, ngày 18 tháng 6 năm 2019 về việc “Không công nhận quan hệ vợ chồng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà H N Kpơr (tên gọi khác H’N Kpơr) – sinh năm 1979 (Có mặt)

Địa chỉ: Buôn K, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bị đơn: Ông Y L Buôn Yă – Sinh năm 1974 (Có mặt)

Địa chỉ: Buôn K, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, tại bản tự khai ngày 28/6/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà H N Kpơr trình bày: bà và ông Y L Buôn Yă tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2005 và không đăng ký kết hôn tại các cơ quan có thẩm quyền. Sau một thời gian chung sống với nhau thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng hay cãi vã nhau, chồng thường xuyên đánh đập, ông bà không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Hiện nay ông bà đã sống ly thân được 7 năm. Nay bà H N xác định không còn tình cảm với ông Y L nên đề nghị Toà án giải quyết không công nhận vợ chồng giữa bà và ông Y L.

Về con chung: Quá trình chung sống bà H N và ông Y L có 02 con chung là cháu H’Lx Kpơr – Sinh ngày: 25/10/2005 và cháu Y T Kpơr – Sinh ngày: 01/10/2009. Bà H N có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 2 cháu đến tuổi trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H N và ông Y L tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 28/6/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Y L Buôn Yă trình bày: ông và bà H N Kpơr tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2005 và không đăng ký kết hôn tại các cơ quan có thẩm quyền. Sau một thời gian chung sống với nhau thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là bất đồng ý kiến dẫn đến hay cãi vã nhau. Hiện ông bà đã sống ly thân được 7 năm. Nay ông Y L cũng xác định không còn tình cảm với bà H N nên đề nghị Toà án giải quyết không công nhận vợ chồng giữa ông và bà H N.

Về con chung: Quá trình chung sống ông Y L và bà H N có 02 con chung là cháu H’Lx Kpơr – Sinh ngày: 25/10/2005 và cháu Y T Kpơr – Sinh ngày: 01/10/2009. Ông Y L đồng ý để mẹ là bà H N Kpơr được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 2 cháu đến tuổi trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông bà tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông Y L xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà H’N Kpơr yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng với ông Y L Buôn Yă, địa chỉ thường trú tại Buôn K, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, thì đây là vụ án “Không công nhận quan hệ vợ chồng” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Cả bà H N Kpơr và ông Y L Buôn Yă đều thừa nhận ông bà chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2005 và ông bà có đủ điều kiện đăng ký kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn tại các cơ quan có thẩm quyền là vi phạm khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình. Nay do mâu thuẫn vợ chồng, ông Y L thường xuyên đánh đập vợ con, vợ chồng không có tiếng nói chung trong cuộc sống nên bà H N đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận giữa bà H N và ông Y L là vợ chồng.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương, nơi bà H N và ông Y L chung sống. Đại diện chính quyền địa phương cho biết:“Bà H N và ông Y L có đăng ký hộ khẩu tại địa phương. Về mâu thuẫn, ông Y L không có sự quan tâm đến gia đình vợ con thường xuyên đánh đập vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm, hiện hai người đã sống ly thân nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật”.

Hội đồng xét xử xét thấy việc bà H N và ông Y L chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn thì không phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng nên không được pháp luật công nhận vợ chồng, do đó yêu cầu của bà H N về việc không công nhận quan hệ vợ chồng với ông Y L là có căn cứ, phù hợp với khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống với nhau bà H N Kpơr và ông Y L Buôn Yă có 02 đứa con chung là cháu H’Lx Kpơr – Sinh ngày: 25/10/2005 và cháu Y T Kpơr – Sinh ngày: 01/10/2009. Quá trình giải quyết vụ án, bà H N và ông Y L thỏa thuận, giao 02 con chung cho mẹ là bà H N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Qua tham khảo ý kiến của con chung, cả 02 cháu đều có nguyện vọng được ở với mẹ, vì mẹ chăm sóc cháu tốt hơn. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận giao con chung là cháu H’Lx Kpơr – Sinh ngày: 25/10/2005 và cháu Y T Kpơr – Sinh ngày: 01/10/2009 cho mẹ là bà H N trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

[2.3] Về cấp dưỡng: Bà H N và ông Y L tự thỏa thuận việc cấp dưỡng, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết là phù hợp.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn bà H N Kpơr phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định, bị đơn ông Y L Buôn Yă không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ: khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ: Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của bà H N Kpơr.

1. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà H N Kpơr và ông Y L Buôn Yă.

2. Về con chung:

Giao cháu H’Lx Kpơr – Sinh ngày: 25/10/2005 và cháu Y T Kpơr – Sinh ngày: 01/10/2009 cho mẹ là bà H N Kpơr chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

Ông Y L Buôn Yă có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Bà H N Kpơr phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm; được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mà bà H N Kpơr đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: AA/2019/0001761 ngày 17/6/2019 tại chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

355
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2019/HNGĐ-ST ngày 22/08/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:105/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về