Bản án 106/2018/HSST ngày 15/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO,TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 106/2018/HSST NGÀY 15/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 92/2018/TLST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

1/ Bị cáo: Võ Hồng Q, sinh năm 1978; tại tỉnh Bến Tre.

- HKTT: 52/4A, đường L, phường S, thành phố M, tinh Tiền Giang.

- Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không.

- Nghề nghiệp: Thợ hồ.

- Trình độ học vấn: 5/12.

- Cha: Võ Hồng Khiêm (đã chết).

- Mẹ: Nguyễn Thị Liên, sinh năm 1950.

- HKTT: 52/4A , đường L, phường S, thành phố M, tinh Tiền Giang.

- Anh chị em ruột có 03 người; bị cáo là con thứ ba trong gia đình.

- Bị cáo chưa có vợ, con.

Nhân thân:

- Năm 2005 bị đưa đi cai nghiện bắt buộc 02 năm tại Trung tâm giáo dục lao động thương binh xã hội tỉnh Tiền Giang.

- Tiền sự: Không.

- Tiền án: 02 lần.

+ Năm 2001, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (Bản án số 47/HSST ngày 09/5/2001). Bị cáo chấp hành xong bản án ngày 28/7/2008.

+ Năm 2009, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (Bản án số 119/2009/HSST ngày 11/9/2009). Bị cáo chấp hành xong bản án ngày 18/3/2017.

- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/5/2018, tạm giam từ ngày 09/6/2018. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố M.

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

2.1/ Võ Thị Mỹ N, sinh năm 1980 (có mặt).

Địa chỉ: 85/5D, đường L, phường S, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

2.2/ Mai Thị Hồng P, sinh năm: 1985 (vắng mặt).

Địa chỉ: 344D, ấp P, xã P, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

3/ Người làm chứng:

3.1/ Huỳnh Thị H, sinh năm: 1966 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

3.2/ Huỳnh Long C, sinh năm: 1998 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp L, xã P, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 30/5/2018 tại khu vực trước trường Trung học cơ sở T, địa chỉ Ấp B, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang; Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố M phối hợp cùng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tiền Giang và Công an xã T, thành phố M bắt quả tang Võ Hồng Q đang tàng trữ trái phép chất ma túy gồm 01 bịch nylon màu trắng hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng đựng trong bao thuốc lá hiệu JET có 09 điếu thuốc lá để trong túi quần Jean phía trước bên trái và 02 bịch nylon màu trắng hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng để trong quần lót của Q đang mặc trên người.

Vật chứng, tài sản thu giữ trong vụ án gồm:

- 01 bịch nylon màu trắng hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng đựng trong bao thuốc lá Jet và 09 điếu thuốc. Tất cả cho vào gói dạng phong bì niêm phong có chữ ký ghi họ tên người chứng kiến Huỳnh Thị H, Huỳnh Long C và dấu mộc đỏ Công an xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (Ký hiệu: I).

- 02 bịch nylon màu trắng hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng. Tất cả cho vào gói dạng phong bì niêm phong có chữ ký ghi họ tên người chứng kiến Huỳnh Thị H, Huỳnh Long Cvà dấu mộc đỏ Công an xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (Ký hiệu: II).

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Attila biển số 63P1-7372.

- Tiền Việt Nam: 4.200.000 đồng.

- 01 điện thoại di động Nokia màu xanh (Bị cáo sử dụng để liên hệ mua ma túy).

- 01 điện thoại di động Wiko màu đen.

- 01 cái kéo.

- 01 cái bóp da màu đen.

- 01 giấy chứng minh nhân dân tên Võ Hồng Q.

- 01 thẻ ATM tên Võ Thị Mỹ Ngân của Ngân hàng Vietcombank (Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Mỹ Tho đã trả cho chị N).

- 01 đĩa ghi hình có âm thanh nội dung buổi hỏi cung bị cáo Võ Hồng Q lúc 09 giờ 00 phút ngày 10/9/2018 (chuyển kèm theo hồ sơ vụ án).

Căn cứ bản kết luận giám định số 104/KLGĐ-PC54 ngày 01/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận:

- Gói 1: Mẫu tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon màu trắng được hàn kín, để trong 01 bao thuốc là hiệu JET, sau đó để trong một bì thư được niêm phong (ký hiệu I) có các chữ ký ghi họ tên: Huỳnh Thị H, Huỳnh Long C (người chứng kiến) và dấu mộc tròn đỏ in chữ: CÔNG AN XÃ T – CÔNG AN THÀNH PHỐ M, TỈNH TIỀN GIANG; gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,6328 gam, loại Methamphetamine.

- Gói 2: Mẫu tinh thể màu trắng trong 02 gói nylon màu trắng được hàn kín, để trong một bì thư được niêm phong (ký hiệu II) có các chữ ký ghi họ tên: Huỳnh Thị H, Huỳnh Long C (người chứng kiến) và dấu mọc tròn đỏ in chữ: CÔNG AN XÃ T – CÔNG AN THÀNH PHỐ M, TỈNH TIỀN GIANG; gửi giám định là ma túy, có khối lượng 9,8896 gam, loại Methamphetamine. 

Tổng cộng là 10,5224 gam loại Methamphetamine.

Mẫu ma túy còn lại sau giám định và các vật chứng, tài sản có liên quan, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố M đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố M chờ xử lý.

Võ Hồng Q khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 30/5/2018, Q đón xe khách từ ngã ba Trung Lương đến bến xe Miền Tây tại thành phố Hồ Chí Minh gặp người bạn tên B (Không rõ họ tên, địa chỉ) mua 02 bịch ma túy giá 3.000.000 đồng và cất giấu trong quần lót đang mặc rồi đón xe về thành phố M. Ngoài ra, Q còn cất giữ 01 bịch ma túy đựng trong bao thuốc lá hiệu JET có 09 điếu thuốc lá để trong túi quần Jean phía trước bên trái đang mặc mà Q đã mua trước đó của B để sử dụng còn lại. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Q điều khiển xe mô tô biển số 63P1-7372 đến khu vực trước cổng trường Trung học cơ sở T thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật. Q khai tàng trữ trái phép số ma túy trên là để sử dụng cho bản thân. Đối với đối tượng tên B đã bán ma túy, do Q không biết họ tên,địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được và hiện đang tiếp tục điều tra làm rõ nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

- Thẻ ATM tên Võ Thị Mỹ N của Ngân hàng Vietcombank và 4.200.000 đồng là của chị Võ Thị Mỹ N, sinh năm 1980, ngụ số 85/5D, đường L, Phường S, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (em ruột bị cáo Q). N đưa cho Q thẻ ATM nhờ Q rút dùm số tiền 4.200.000 đồng. Q chưa kịp đưa lại cho N thì bị bắt giữ. Chị N yêu cầu được nhận lại số tiền 4.200.000 đồng.

- Xe mô tô hiệu Attila biển số 63P1-7372 là của chị Mai Thị Hồng P, sinh năm 1985, ngụ số 344A, ấp P, xã P, thành phố M cho Q mượn sử dụng làm phương tiện đi lại, không biết Q mua và tàng trữ trái phép chất ma túy. Chị P yêu cầu được nhận lại xe mô tô trên.

Từ khi bị bắt quả tang và trong quá trình điều tra, Q không thừa nhận hành vi phạm tội. Đến giai đoạn truy tố, Võ Hồng Q đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội phù hợp vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai người làm chứng, người liên quan và các chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án nên được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo Q có 02 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm”.

Tại bản cáo trạng số 96/QĐ-VKS ngày 11/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố M đã truy tố Võ Hồng Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g, o Khoản 2 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Theo quy định tại Điểm g, o Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có khung hình phạt từ 05 năm tù đến 10 năm tù.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố M đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm g, o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Võ Hồng Q từ 07 - 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 bịch nylon màu trắng hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng đựng trong bao thuốc lá Jet và 09 điếu thuốc. Tất cả cho vào gói dạng phong bì niêm phong có chữ ký ghi họ tên người chứng kiến Huỳnh Thị H, Huỳnh Long C và dấu mộc đỏ Công an xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (Ký hiệu: I).

- 02 bịch nylon màu trắng hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng. Tất cả cho vào gói dạng phong bì niêm phong có chữ ký ghi họ tên người chứng kiến Huỳnh Thị H, Huỳnh Long C và dấu mộc đỏ Công an xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (Ký hiệu: II).

+ Tịch thu sung công quỹ:

- 01 điện thoại di động Nokia màu xanh (Bị cáo sử dụng để liên hệ mua ma túy).

+ Trao trả cho chị Mai Thị Hồng P:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Attila biển số 63P1-7372.

+ Trao trả cho chị Võ Thị Mỹ N:

- Tiền Việt Nam: 4.200.000 đồng.

+ Trao trả cho bị cáo Võ Hồng Q:

- 01 điện thoại di động Wiko màu đen.

- 01 cái kéo.

- 01 cái bóp da màu đen.

+ Tiếp tục tạm giữ: 01 giấy chứng minh nhân dân tên Võ Hồng Q số 311562499, khi bị cáo chấp hành hình phạt tù xong trả lại cho bị cáo . (Quyết định xử lý vật chứng số 56/QĐ-VKS-HS ngày 24/8/2018 và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/8/2018)

+ Ghi nhận chị Võ Thị Mỹ N đã nhận lại 01 thẻ ATM tên Võ Thị Mỹ N của Ngân hàng Vietcombank (Biên bản trao trả tài sản ngày 24 tháng 7 năm 2018).

+ 01 đĩa ghi hình có âm thanh nội dung buổi hỏi cung bị cáo Võ Hồng Q lúc 09 giờ 00 phút ngày 10/9/2018 (kèm theo hồ sơ vụ án).

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã

được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra thành phố Mỹ Tho, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại hay có ý kiến gì về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa Võ Hồng Q khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 30/5/2018, Q đón xe khách từ ngã ba Trung Lương đến bến xe Miền Tây tại thành phố Hồ Chí Minh gặp người bạn tên B (Không rõ họ tên, địa chỉ) mua 02 bịch ma túy giá 3.000.000 đồng và cất giấu trong quần lót đang mặc rồi đón xe về thành phố M. Ngoài ra, Q còn cất giữ 01 bịch ma túy đựng trong bao thuốc lá hiệu JET có 09 điếu thuốc lá để trong túi quần Jean phía trước bên trái đang mặc mà Q đã mua trước đó của B để sử dụng còn lại. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Q điều khiển xe mô tô biển số 63P1-7372 đến khu vực trước cổng trường Trung học cơ sở

T thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật. Q khai tàng trữ trái phép số ma túy trên là để sử dụng cho bản thân. Đối với đối tượng tên B đã bán ma túy cho Q, do Q không biết họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được và hiện đang tiếp tục điều tra làm rõ nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Võ Hồng Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định Điểm g, o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Căn cứ Bản kết luận giám định số 104 ngày 01/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận:

- Gói 1: Mẫu tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon màu trắng được hàn kín, để trong 01 bao thuốc là hiệu JET, sau đó để trong một bì thư được niêm phong (ký hiệu I) có các chữ ký ghi họ tên: Huỳnh Thị H, Huỳnh Long C (người chứng kiến) và dấu mọc tròn đỏ in chữ: CÔNG AN XÃ T – CÔNG AN THÀNH PHỐ M, TỈNH TIỀN GIANG; gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,6328 gam, loại Methamphetamine.

- Gói 2: Mẫu tinh thể màu trắng trong 02 gói nylon màu trắng được hàn kín, để trong một bì thư được niêm phong (ký hiệu II) có các chữ ký ghi họ tên: Huỳnh Thị H, Huỳnh Long C (người chứng kiến) và dấu mọc tròn đỏ in chữ: CÔNG AN XÃ T – CÔNG AN THÀNH PHỐ M, TỈNH TIỀN GIANG; gửi giám định là ma túy, có khối lượng 9,8896 gam, loại Methamphetamine.

Tổng cộng là 10,5224 gam loại Methamphetamine.

[5] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Từ những chứng cứ trên đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Võ Hồng Q đã phạm tội “ Tàng trữ trái pháp chất ma túy”. Do đó cáo trạng số 96/QCT-VKS-HS ngày 11/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố M đã truy tố bị cáo Võ Hồng Q về tội “Tàng trữ trái pháp chất ma túy” là có cơ sở đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[6] Về Điều luật áp dụng: Theo quy định tại Điểm g, o Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có khung hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm tù nên Hội đồng xét xử áp dụng Điểm g, o Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[7] Về tình tiết tăng nặng khung hình phạt và nhân thân bị cáo có 02 tiền án “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa xóa án tích: hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được rằng ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm, việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm, bị cáo biết rõ những tác hại trực tiếp do ma túy gây ra đối với con người cũng như những tác hại gián tiếp cho xã hội, nhưng bị cáo vẫn tàng trữ ma túy để sử dụng, thể hiện việc xem thường pháp luật của bị cáo, nên cần xử lý nghiêm để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[8] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét đến việc bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017.

[9] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Căn cứ vào quyết định chuyển vật chứng số 56/QĐ-VKS- TPMT ngày 24/8/2018 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/8/2018).

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 bì thư được niêm phong có ký hiệu số 104/1 ngày 01/6/2018, có chữ ký in họ tên Nguyễn Thanh T (giám định viên) Nguyễn Thị Kiều L (trợ lý giám định) chữ ký ghi họ tên Nguyễn Phúc Tài ( bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ in chữ PHÒNG KỸ THUẬN HÌNHH SỰ CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG.

- 01 bì thư được niêm phong có ký hiệu số 104/2 ngày 01/6/2018, có chữ ký in họ tên Nguyễn Thanh T (giám định viên) Nguyễn Thị Kiều L (trợ lý giám định) chữ ký ghi họ tên Nguyễn Phúc T ( bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ in chữ PHÒNG KỸ THUẬN HÌNHH SỰ CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG.

- 01 cái kéo.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

- 01 điện thoại di động Nokia màu xanh (Bị cáo sử dụng để liên hệ mua ma túy).

+ Trao trả cho chị Mai Thị Hồng P ( tài sản của chị P):

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Attila biển số 63P1-7372.

+ Trao trả cho chị Võ Thị Mỹ N: ( tài sản của chị Ngân):

- Tiền Việt Nam: 4.200.000 đồng.

+ Trao trả cho bị cáo Võ Hồng Q( vì tải sản không liên quan đến vụ án):

- 01 điện thoại di động Wiko màu đen.

- 01 cái bóp da màu đen.

+ Đối với giấy chứng minh nhân dân tên Võ Hồng Q. Bị cáo đang bị tạm giam và phải chấp hành hình phạt tù. Do đó cần tiếp tục tạm giữ tại Chi Cục thi hành án dân sự thành phố M, khi bị cáo chấp hành hình phạt tù xong bị cáo nhận lại giấy chứng minh nhân dân tên Võ Hồng Q.

+ Ghi nhận chị Võ Thị Mỹ N 01 thẻ ATM tên Võ Thị Mỹ N của Ngân hàng Vietcombank. ( Biên bản trao trả tài sản ngày 24 tháng 7 năm 2018.

[10] Đối với đối tượng người thanh niên đã bán ma túy cho Q Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể của đối tượng, trường hợp xác minh được xử lý sau.

[11] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về các chứng cứ buộc tội, các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các quy định pháp luật để giải quyết vụ án với mức hình phạt đối với bị cáo Võ Hồng Q từ 07 - 08 năm tù và xử lý vật chứng. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTV QH khóa 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Võ Hồng Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1/ Áp dụng Điểm g, o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điểm s khoản 1Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 Xử : Phạt Bị cáo Võ Hồng Q tù 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ 31/5/2018, tạm giam ngày 09/6/2018.

2/ Xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sư năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Căn cứ vào quyết định chuyển vật chứng số 56/QĐ-VKS-HS ngày 24/8/2018 và biên bản giao nhận vật chứng 30/8/2018.

+ Tịch thu tiêu hủy gồm:

- 01 bì thư được niêm phong có ký hiệu số 104/1 ngày 01/6/2018, có chữ ký in họ tên Nguyễn Thanh T (giám định viên) Nguyễn Thị Kiều L (trợ lý giám định) chữ ký ghi họ tên Nguyễn Phúc T (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ in chữ PHÒNG KỸ THUẬN HÌNHH SỰ CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG.

- 01 bì thư được niêm phong có ký hiệu số 104/2 ngày 01/6/2018, có chữ ký in họ tên Nguyễn Thanh T (giám định viên) Nguyễn Thị Kiều L (trợ lý giám định) chữ ký ghi họ tên Nguyễn P Tài phúc (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ in chữ PHÒNG KỸ THUẬN HÌNHH SỰ CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG.

- 01 cái kéo.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

- 01 điện thoại di động Nokia màu xanh (Bị cáo sử dụng để liên hệ mua ma túy).

+ Trao trả cho chị Mai Thị Hồng P:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Attila biển số 63P1-7372.

+Trao trả cho chị Võ Thị Mỹ N:

- Tiền Việt Nam: 4.200.000 đồng.

+ Trao trả cho bị cáo Võ Hồng Q:

- 01 điện thoại di động Wiko màu đen.

- 01 cái bóp da màu đen.

+ Tiếp tục tạm giữ: 01 giấy chứng minh nhân dân tên Võ Hồng Q số 311562499 tại Chi Cục thi hành án dân sự thành phố M Tho, tinh Tiền Giang khi bị cáo Võ Hồng Q chấp hành hình phạt tù xong trả lại cho bị cáo .

+ Ghi nhận chị Võ Thị Mỹ N 01 thẻ ATM tên Võ Thị Mỹ N của Ngân hàng Vietcombank (Biên bản trao trả tài sản ngày 24 tháng 7 năm 2018).

3/ Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoán 14 về mức thu, nộp, giảm và quản lý sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Võ Hồng Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Bị cáo Võ Hồng Q, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Võ Thị Mỹ N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Mai Thị Hồng P có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản bản án được niêm yết . Để yêu cầu xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2018/HSST ngày 15/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:106/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về