Bản án 106/2019/HS-PT ngày 24/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 106/2019/HS-PT NGÀY 24/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 108/2019/TLPT-HS ngày 04/5/2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn Út L. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2019/HS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn Út L, sinh năm 1980, tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp P, xã C, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1948; bị cáo có vợ là Lê Thị Ngọc T (đã chết) và 02 con (lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2014)

Tiền án: Ngày 09/12/2015, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự phúc thẩm số 778/2015/HSPT; ngày 28/4/2016, bị Tòa án nhân dân quận G, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 147/2016/HSST; ngày 14/9/2018, bị Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 (mười) tháng 04 (bốn) ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 139/2018/HSST.

Tiền sự: Không; bị cáo bị bắt ngày 15/9/2018 và tạm giam cho đến nay; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại nhưng do không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 15/9/2018, Nguyễn Văn Út L đón xe buýt đi từ bến xe S thuộc huyện M, Thành phố Hồ Chí Minh đến ngã tư D, phường G, thị xã I, tỉnh Bình Dương để tìm người quen. Do không tìm thấy người quen nên Út L đi bộ đến Siêu thị Coop Mart, thuộc phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương để tìm người bạn (chưa rõ nhân thân, lai lịch cụ thể) đang làm bảo vệ tại Siêu thị, nhưng do bạn của Út L đã nghỉ làm nên Út L đi vào siêu thị mua nước uống đồng thời đi lòng vòng trong siêu thị để xem đồ. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày 15/9/2018, khi đi đến quầy bán mỹ phẩm (nhãn hàng Purie), Út L nhìn thấy có 01 điện thoại di động Iphone 7 của bà Trần Gia L, sinh năm 1997; địa chỉ: khu 1, phường L, thành phố T, tỉnh Bình Dương là nhân viên quầy mỹ phẩm đang để trên bàn vi tính cạnh quầy mỹ phẩm, Út L quan sát xung quanh thấy không có ai để ý nên đã dùng tay trái lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần bên trái rồi bỏ đi. Liền sau đó, bà Trần Gia L sau khi phát hiện bị mất điện thoại nên đã báo bảo vệ, khi bảo vệ quan sát camera an ninh thì phát hiện Út L là người lấy điện thoại nên truy đuổi Út L. Lúc này, Út L đang đi ra đến cổng của siêu thị thì thấy bảo vệ đang đuổi theo nên Út L vứt lại chiếc điện thoại Iphone 7 xuống nền đường và bỏ chạy được một đoạn thì bị bảo vệ bắt giữ, giao Công an phường K để lập biên bản phạm tội quả tang. Cùng ngày 15/9/2018, Công an phường K đã bàn giao hồ sơ, đối tượng Nguyễn Văn Út L và tang vật là 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7; 01 ốp lưng màu hồng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương để giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ Bản Kết luận định giá tài sản số 330/KLTS-TTHS ngày 21/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 trị giá 9.000.000 đồng và 01 vỏ ốp lưng màu hồng trị giá 50.000 đồng.

Ngày 22/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố T đã giao trả 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 và 01 vỏ ốp lưng màu hồng cho bà Trần Gia L.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2019/HS-ST ngày 26/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Út L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Út L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/9/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.

Ngày 07/5/2019, bị cáo Nguyễn Văn Út L kháng cáo xin xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Về tố tụng, bị cáo kháng cáo trong thời gian quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm để xem xét giải quyết kháng cáo của bị cáo là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật. Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo về việc xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án: Bị cáo cho rằng bị cáo không thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của bị hại, bị cáo bị oan. Tuy nhiên, căn cứ vào biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, biên bản kiểm tra camera ngày 15/9/2018, lời khai của bị hại và của người làm chứng và lời khai của bị cáo trong suốt quá trình điều tra vụ án đã đủ cơ sở kết luận bị cáo thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại. Ngoài ra, bị cáo có 03 tiền án nên Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc hành vi phạm tội, nhân thân, các tiền án, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Út L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin xem xét lại bản án nhưng không có cơ sở. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Út L cho rằng bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo bị oan và nói lời nói sau cùng là bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại bản án của Tòa án cấp sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo cho rằng bị cáo không thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo bị oan. Tuy nhiên, căn cứ vào biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang ngày 15/9/2018, biên bản kiểm tra camera ngày 15/9/2018, lời khai của bị hại bà Trần Gia L, lời khai của người làm chứng ông Lê Văn Đ và lời khai của bị cáo trong suốt quá trình điều tra vụ án (bút lục số 48 - 55) đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 15/9/2018, tại quầy bán mỹ phẩm (nhãn hàng Purie) của Siêu thị Coop Mart, phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Văn Út L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động Iphone 7 và 01 ốp lưng điện thoại của bà Trần Gia L. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 9.050.000 đồng. Đồng thời, bị cáo đã bị kết án 03 lần về cùng một tội danh “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới do lỗi cố ý.

Tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá trừ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

g) Tái phạm nguy hiểm

…”

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Út L về tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” làm tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi lén lút chiếm đoạt điện thoại di động của bị cáo Nguyễn Văn Út L là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bản thân bị cáo là người có nhiều tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã bị xử phạt hình sự nhiều lần về cùng một tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích thì lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, cho thấy bị cáo là người không biết ăn năn, tự cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội, bị cáo là người xem thường pháp luật, về nhận thức, bị cáo Út L biết rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại là hành vi trái pháp luật nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, lười lao động nhưng muốn có tiền để tiêu xài mà bị cáo bất chấp hậu quả vẫn thực hiện hành vi phạm tội.

[3] Đối với kháng cáo của bị cáo về việc xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án: Hội đồng xét xử xét thấy, như đã phân tích ở trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo và xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2019/HS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn Út L phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Út L; giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm 69/2019/HS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Út L phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Út L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15 tháng 9 năm 2018.

2/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn Út L phải nộp 200.000 đồng.

3/ Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2019/HS-PT ngày 24/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:106/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về