Bản án 106/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 106/2019/HS-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 103/2019/TLST-HS ngày 18/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2019/QĐXXST-HS ngày 08/8/2019 đối với bị cáo:

Trần Thị L, sinh năm 1979 tại Hà Nam; Nơi cư trú: Tổ dân phố D, phường C, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Phan Thị L; có chồng là Nguyễn Thứ T, sinh năm 1979 và 03 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 17/01/2019 bị Công an phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi: “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Bị hại: Bà Ngô Thủy C, sinh năm 1947; trú tại: Tổ N, phường M, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Thứ T, sinh năm 1979; trú tại: Tổ dân phố D, phường C, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Bà Trịnh Thị L, sinh năm 1959; trú tại:Tổ C, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 18/05/2019, Trần Thị L điều khiển xe môtô BKS: 90B1-372.24 từ nhà đi đến cửa hàng bán cây cảnh của bà Ngô Thủy C tại số 3, đường Trường Chinh, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để hỏi mua thuốc kích thích mọc rễ cho cây. Tại đây sau khi mua thuốc kích rễ cây xong, L nảy sinh ý định trộm cắp cây phong lan bày trong của hàng của bà C. Thấy bà C đang mải đứng nói chuyện với khách hàng không để ý, L lén lút lấy 01 cây phong lan loại lan trầm 990 của Đài Loan có hai thân, một thân dài 09cm, một thân dài 16cm giấu vào trong áo chống nắng phía trước bụng đang mặc rồi đứng dậy bỏ đi vài bước thì bị bà C nhìn thấy và hô: “Chị kia đứng lại, bỏ lan ra”, đồng thời chạy đến giữ L lại để kiểm tra, phát hiện thấy cây phong lan được giấu trong áo chống nắng của L nên bà C đã đưa L đến trình báo tại Công an phường Lương Khánh Thiện, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

Vật chứng, tài sản thu giữ của Trần Thị L gồm: 01 cây phong lan trầm 990 của Đài Loan có hai thân, một thân dài 09cm, một thân dài 16cm; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar màu đen; 01 xe môtô nhãn hiệu HONDA Wave 110S, BKS: 90B1-372.24; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô mang tên Vũ Văn Trang và số tiền 200.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 44/2019 ngày 23/05/2019, Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận:“01cây phong lan có hai thân, một thân dài 09cm, một thân dài 16cm (tính từ phần gốc đến phần ngọn) giá 300.000 đồng”.

Ngày 11/6/2019, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cây phong lan Trần Thị L đã trộm cắp cho bà Ngô Thủy C.

Bản cáo trạng số 106/CT-VKSPL ngày 17/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Trần Thị L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Trần Thị L, đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173, các điểm h, i và s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Trần Thị L từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp chứng cứ khác của vụ án như biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, biên bản vụ việc, kết luận xác minh tin báo về tội phạm, kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại, người làm chứng, lý lịch tư pháp của bị cáo và các tài liệu khác trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Trần Thị L là đối tượng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: “Trộm cắp tài sản”, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 18/05/2019, tại cửa hàng cây cảnh của bà Ngô Thủy C ở số 3, đường Trường Chinh, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, lợi dụng sự sơ hở của bà C trong việc quản lý tài sản, Trần Thị L đã lén lút lấy trộm của của bà C 01 cây phong lan trị giá 300.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội ít nghiêm trọng và chưa có tiền án.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội gây thiệt hại không lớn nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, i và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự, trị an khu vực dân cư. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, cũng xét thấy bị cáo lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra không lớn, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng nên xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, điều kiện về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng thấy không cần thiết buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cách ly khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương nơi cư trú cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân tốt, không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người lao động tự do, nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu hồi, trả lại tài sản bị cáo chiếm đoạt là cây phong lan cho bị hại. Bà Ngô Thủy C đã nhận lại tài sản của mình và không có đề nghị gì thêm về việc bồi thường. Vì vậy, trách nhiệm dân sự trong vụ án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với 01 chiếc điện thoại di động và số tiền 200.000 đồng, quá trình điều tra đã xác định đây là những tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên sẽ trả lại cho bị cáo.

+ Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave S, BKS: 90B1-372.24 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Vũ Văn Trang, quá trình điều tra đã xác định đây là tài sản hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân của bị cáo và anh Nguyễn Thứ T (chồng bị cáo), không liên quan đến vụ án nên sẽ trả lại cho bị cáo và anh Trưởng.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173; các điểm h, i và s khoản 1 Điều 51; Điều 50 và Điều 65 Bộ luật hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Trần Thị L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Giao bị cáo Trần Thị L cho Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo Trần Thị L 01 (một) chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Mobistar, màu đen, số IMEI: 357950420226081 và số tiền 200.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo Trần Thị L và anh Nguyễn Thứ T 01 (một) xe môtô nhãn hiệu HONDA Wave S 110 màu sơn đen-bạc, đã qua sử dụng, biển kiểm soát: 90B1-372.24, số khung: RLHJC5210CY-252688, số máy: JC52E-4374227; 01 (một) chứng nhận đăng ký môtô, xe máy số 047417 mang tên Vũ Văn Trang, sinh năm 1971, trú tại: Thái Hòa, Châu Sơn, Hà Nam.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 24/7/2019 và Ủy nhiệm chi số 50 lập ngày 26/7/2019.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Trần Thị L nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:106/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về