TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN G - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1062/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 20/8/2019, tại Tòa án nhân dân quận G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 305/2019/TLST-HN, ngày 29/3/2019 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 167/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 10/7/2019 và Quyết định hoãn phiên toà số 135/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 31/7/2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Ngọc H.
Bị đơn: Anh Phạm Bá V.
Cùng địa chỉ cư trú: Số A đường D, Phường N, quận G.
NHẬN THẤY
1. Theo đơn khởi kiện Tòa án nhận ngày 04/5/2019 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - chị Phạm Thị Ngọc H trình bày:
Chị và anh V tự nguyện tìm hiểu, sống chung năm 2011, đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 83, quyển số 01/2011, ngày 28/4/2011 do Uỷ ban nhân dân Phường H, quận B cấp.
Năm 2016, anh chị xảy ra bất đồng quan điểm sống dẫn đến xung đột, dù sống chung nhà nhưng không có tiếng nói chung. Cuộc sống chung không hoà hợp vì thiếu sự quan tâm, chia sẽ, ảnh hưởng không tốt đến con. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, nghĩa vụ vợ chồng đối với nhau cũng không có nên chị làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn.
Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Phạm Ngọc Anh T, sinh ngày 21/01/2012. Chị yêu cầu trực tiếp nuôi con chung.
Khi nộp đơn ly hôn, chị yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng. Tuy nhiên, anh V không đến Toà án, nhiều năm nay cũng không có trách nhiệm với con chung nên chị không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này. Sau này nếu có cơ sở, chị sẽ nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Tại biên bản ghi nhận ngày 06/8/2019, bị đơn - anh Phạm Bá V trình bày: Anh đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của chị Hoa. Do bận công việc, anh không thể đến dự phiên toà nên đề nghị Toà án tiến hành xét xử vắng mặt.
3. Tại phiên tòa sơ thẩm Nguyên đơn - chị Phạm Thị Ngọc H vẫn giữ ý kiến và yêu cầu. Bị đơn - Anh Phạm Bá V có yêu cầu xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận G có ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự: Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử cũng như các đương sự chấp hành đúng trình tự, thủ tục tố tụng do Bộ luật tố tụng dân sự quy định.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ quy định của Luật hôn nhân và gia đình, yêu cầu của chị H ph hợp quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án:
Chị H có đơn ly hôn với anh V. Anh V cư trú tại quận G. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về ly hôn. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận G.
- Về người tham gia tố tụng:
Anh V có yêu cầu đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Đây là ý chí của anh V. Yêu cầu của đương sự phù hợp quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Chị Phạm Thị Ngọc H Căn cứ Điều 05 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử chỉ xem xét giải quyết trong phạm vi vấn đề đương sự có yêu cầu, những vấn đề liên quan đến vụ án đương sự không yêu cầu, Hội đồng xét xử không giải quyết.
Căn cứ lời khai của đương sự, căn cứ tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn nộp cho Tòa án và Tòa án thu thập được có cơ sở xác định:
Hôn nhân giữa chị H và anh V là tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 83, quyển số 01/2011, ngày 28/4/2011 do Uỷ ban nhân dân Phường H, quận B cấp nên được xem là hôn nhân hợp pháp.
Sau khi Tòa án thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh V không nộp (gửi) cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị H và không nộp các tài liệu chứng cứ kèm theo (nếu có). Sau khi nhận Quyết định hoãn phiên toà của Tòa án, anh V có ý kiến đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị Hoa. Căn cứ Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, lời trình bày của anh V được xem là chứng cứ để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ án.
Hội đồng xét xử căn cứ lời trình bày của các đương sự xét thấy hôn nhân giữa anh chị không còn khả năng hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị H phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Về con chung:
Chị H có yêu cầu trực tiếp nuôi con. Cháu Thư có nguyện vọng được sống cùng với mẹ. Anh V đồng ý. Căn cứ Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ số 370/2019/QĐ-CCTLCC, ngày 20/6/2019, chính quyền địa phương cung cấp thông tin như sau: Chị H là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, đưa đón con đi học. Xét quyền lợi mọi mặt của con chung, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi.
Việc cấp dưỡng nuôi con, chị H không yêu cầu giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xét.
- Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
Từ phân tích trên, xét yêu cầu khởi kiện của chị H và đề nghị của đại diện iện kiểm sát là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 5, 147, 227, 228, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015;
- Căn cứ Luật thi hành án dân sự năm 2008;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Ngọc H
1.1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Ngọc H và anh Phạm Bá V.
Giấy chứng nhận kết hôn số 83, quyển số 01/2011, ngày 28/4/2011 do Uỷ ban nhân dân Phường H, quận B cấp không còn hiệu lực.
1.2. Về con chung: Chị H và anh V có 01 con chung tên Phạm Ngọc Anh T, sinh ngày 21/01/2012. Chị H trực tiếp nuôi con chung.
Chị H không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.
Anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở;
Trên cơ sở lợi ích con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
1.3. Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 a trăm ngàn) đồng. Chị H phải chịu. Cấn trừ vào số tiền chị H đã tạm ứng án phí theo Biên lai thu số AA/2018/0000718, ngày 20/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận G. Chị H đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo:
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Người vắng mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền được thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 1062/2019/HNGĐ-ST ngày 20/08/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 1062/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về