Bản án 107/2018/HSST ngày 30/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 107/2018/HSST NGÀY 30/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2018/TLST- HS ngày 22 tháng 6 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2018/ QĐXXST - HS ngày 17 tháng 7 năm 2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc Q, sinh ngày 22 tháng 7 năm 1971 tại T; Nơi cư trú: số nhà 332, đường H, tổ 12, phường P, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn) lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc C và bà Lê Thị Thúy L; có vợ là Hoàng Thị V, sinh năm 1972 và 01 con sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30/5/2005 bị Công an phường P, thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng, hình thức phạt tiền, đã chấp hành xong ngày 30/5/2005. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/4/2018 đến ngày 09/4/2018 chuyển tạm giam đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1940. Trú tại: số nhà 332, đường H, tổ 12, phường P, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 20 phút ngày 06/04/2018, Nguyễn Ngọc Q điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave alpha màu đen, BKS 17L4- 1792 từ nhà đến khu vực tổ 24, phường H, thành phố T, mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây Q gặp và mua của một người nam giới khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) 01 gói ma túy bên ngoài là túi nylon trong suốt, bên trong có 01 gói ngoài bằng giấy trắng có dòng kẻ với giá 200.000 đồng, Q cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi tìm chỗ vắng để sử dụng, khi đi đến khu vực đường T, thuộc tổ 30, phường B, thành phố T thì bị tổ công tác của Công an thành phố T làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Dương Ngọc H và anh Nguyễn Quang H, Q đã tự giác đưa từ lòng bàn tay trái ra giao nộp 01 gói ma túy, Q khai là Hêrôin mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác mở gói nylon ra kiểm tra trong có gói bên ngoài gói bằng giấy trắng có dòng kẻ bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tổ công tác đã niêm phong vật chứng, yêu cầu Quang và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường B, thành phố T để làm việc, qua kiểm tra thu tại túi quần hậu phải của Q đang mặc 01 ví giả da màu nâu bên trong có 15.000 đồng; thu tại túi quần trái của Q đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 216 màu đen. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và quản lý tài sản trên.

Tại bản kết luận giám định số 120/KLGĐ - PC54 ngày 06/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Nguyễn Ngọc Q là ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,1561 gam.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Ngọc Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 102/CT - VKSTP ngày 21 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; Đề nghị Hội đồng xét xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Q mức án từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Về xử lý vật chứng: Căn 2 cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, đề nghị: Tịch thu để tiêu hủy số Hêrôin hoàn lại sau giám định; tuyên trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc Q 01 ví giả da màu nâu, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 216 màu đen và số tiền 15.000 đồng; nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án.Trả lại cho ông Nguyễn Ngọc C 01 xe máy nhãn hiệu Wave alpha màu đen, BKS 17L4- 1792. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo trình bày lời nói sau cùng Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa như đã khai trước cơ quan điều tra phù hợp với lời khai người chứng kiến là anh Dương Ngọc H, anh Nguyễn Quang H và lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc C được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định số 120/KLGĐ cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 06/4/2018, tại khu vực đường T, thuộc tổ 30, phường B, thành phố T, Nguyễn Ngọc Q đã bị Công an bắt quả tang tàng trữ trái phép 0,1561 gam Hêrôin.

[3] Bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình, hiểu rõ tác hại của ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của Nguyễn Ngọc Q đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố là có căn cứ.

Viện dẫn Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển,sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a)

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…”

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với công cuộc đấu tranh kiên quyết của Đảng và Nhà nước ta về bài trừ tệ nạn ma túy ra khỏi xã hội nên tính chất vụ án là nghiêm trọng cần xử phạt nghiêm minh trước pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có cả hai bố mẹ đẻ đều được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Về nhân thân: Năm 2005 bị Công an phường P, thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng, hình thức phạt tiền đã chấp hành xong ngày 30/5/2005, tính đến thời điểm phạm tội đã được xóa, coi như chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử lên mức án tương xứng với hành vi phạm tội và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6]. Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng, bản thân không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7]. Về nguồn gốc ma túy bị cáo khai mua của một nam giới khoảng 40 tuổi, nhưng không biết tên, địa chỉ. Do không xác định được người bán ma túy cho bị cáo nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[8]. Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave alpha màu đen, BKS 17L4- 1792 bị cáo đã dùng làm phương tiện đi mua ma túy, qua điều tra xác định là tài sản của ông Nguyễn Ngọc C (bố đẻ Q) cho Q mượn nhưng không

4 biết Q sử dụng để đi mua ma túy, nên tuyên trả lại cho ông Nguyễn Ngọc C là phù hợp. Số ma túy thu giữ của bị cáo hoàn lại sau giám định là chất thuộc danh mục Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Các tài sản Công an quản lý của bị cáo gồm: 01 ví giả da màu nâu, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 216 màu đen và số tiền 15.000 đồng. Qua điều tra thấy các tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo, nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án.

[9]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 47; Điều 50; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Căn cứ Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; khoản 1 Mục I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Q 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 06/4/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

Tuyên tịch thu 0,1287gam Hêrôin trong bao niêm phong số 120/KLGĐ (mẫu vật hoàn trả sau giám định) để tiêu hủy.

Tuyên trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave alpha màu đen, BKS 17L4- 1792 cho ông Nguyễn Ngọc C; trú tại: số nhà 332, đường H, tổ 12, phường P, thành phố T, tỉnh T.

Tuyên trả lại cho Nguyễn Ngọc Q 01ví giả da màu nâu, 01điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 216 màu đen và số tiền 15.000 đồng. Nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án.

 (Vật chứng và tài sản đã chuyển chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình quản lý có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/6/2018)

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Ngọc Q phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Ngọc Q được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 30/7/2018. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc C có quyền kháng cáo phần nội dung có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2018/HSST ngày 30/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về