Bản án 108/2019/HSST ngày 12/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 108/2019/HSST NGÀY 12/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 7 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 107/2019/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2019/QĐXXST-HS ngày 01/7/2019 đối với bị cáo:

LÊ XUÂN P, sinh ngày 26/10/1987 tại Đồng Nai

HKTT: Ấp B M, xã Ph Th, huyện T Ph, tỉnh Đồng Nai.

Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định.

Nghề nghiệp: Không Trình độ học vấn: 02/12

Dân tộc: Kinh Giới tính: Nam

Tôn giáo: Thiên chúa

Quốc tịch: Việt Nam Con ông Lê Xuân Th, sinh năm 1953 và bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1958 (đã chết).

Gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ 03 trong gia đình.

Chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không

* Nhân thân:

- Ngày 26/12/2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” với mức hình phạt 10 tháng tù, theo bản án số 238/2005/HSPT. Đã chấp hành xong hình phạt và án phí.

- Ngày 27/10/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” với mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù, theo bản án số 572/2009/HSST. Đã chấp hành xong hình phạt và án phí.

- Ngày 11/6/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” với mức hình phạt 02 năm tù, theo bản án số 327/2014/HSST. Đã chấp hành xong hình phạt và án phí.

- Ngày 25/9/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” với mức hình phạt 16 tháng tù, theo bản án số 174/2014/HSST. Đã chấp hành xong hình phạt và án phí.

Bị bắt ngày 23/4/2019. (Có mặt)

* Bị hại: Chị Huỳnh Thị Kim Ch, sinh năm 1978

Trú tại: Nhà trọ bà Thủy, Thôn Đ B, ấp B Ch, xã B S, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ liên hệ: Số abc, ấp Ng Ph, xã H N 3, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Ngọc Th, sinh năm 1983

Trú tại: KV.T H, phường Nh H, thị xã A Nh, tỉn Bình Định.

* Người làm chứng: Ông Trần Minh H, sinh năm 1965

Trú tại: Thôn Đ B, ấp B Ch, xã B S, huyện Trả B, tỉnh Đồng Nai.

(Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 30 phút, ngày 23/4/2019, Lê Xuân P đi ngang qua khu nhà trọ của ông Cao Chu H1 ở thôn Đ B, ấp B Ch, xã B S, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện trong hành lang dãy nhà trọ dựng một xe mô tô nên nảy sinh ý định trộm cắp. P dùng đèn pin soi vào dãy nhà trọ, thấy không có người nên lén lút vào trong và dắt chiếc xe mô tô biển số 77M1-6713 của chị Huỳnh Thị Kim Ch ra ngoài, dùng tay giật dây điện ở ổ khóa nổ máy tẩu thoát được khoảng 200m thì bị lực lượng tuần tra của Công an xã B S kiểm tra hành chính. P không xuất trình được giấy tờ nên đưa về trụ sở làm việc. Qua điều tra, P đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp xe máy biển số 77M1-6713. Công an xã B S đã lập hồ sơ ban đầu, tạm giữ vật chứng chuyển giao đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 xe mô tô hiệu JULONG, biển số 77M1-6713; 01 USB màu đỏ đen lưu file video ghi hình Lê Xuân P thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô 77M1-6713. Đối với 01 đèn pin mà P sử dụng khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, sau khi trộm cắp tài sản thì P đã vứt bỏ trên đường đi, không xác định được địa điểm nên không có cơ sở để thu giữ.

Tại Bản kết luận định giá ngày 26/4/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Trảng Bom kết luận: 01 xe mô tô hiệu JULONG biển số 77M1-6713 đã qua sử dụng trị giá 2.800.000đ.

Về xử ký vật chứng: Đối với 01 xe mô tô hiệu JULONG biển số 77M1-6713 qua điều tra xác định là do anh Lê Ngọc Th, sinh năm 1983, HKTT: KV Tâ H, phường Nh H, TX. A Nh, Bình Định đứng tên giấy chứng nhận đăng ký xe nhưng đã tặng cho chị Huỳnh Thị Kim Ch được sở hữu đối với chiếc xe mô tô trên. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định trả lại xe mô tô cho chị Huỳnh Thị Kim Ch; Đối với 01 USB màu đỏ đen lưu file video ghi hình Lê Xuân P thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô 77M1-6713 được lưu kèm theo hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Ch đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về phần dân sự.

Tại bản cáo trạng số 127/CT/VKS-TB ngày 20/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom để xét xử đối với bị cáo Lê Xuân P về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, h khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Lê Xuân P từ 10 tháng đến 12 tháng tù; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Bị cáo Lê Xuân P là đối tượng sử dụng ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Để có tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng, bị cáo đã lợi dụng thời điểm vào ban đêm (vào khoảng 00 giờ 30 phút, ngày 23/4/2019), khi đi ngang qua khu nhà trọ của ông Cao Chu H ở thôn Đ B, ấp B Ch, xã B S, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện trong hành lang dãy nhà trọ dựng một xe mô tô, quan sát thấy không có người nên lén lút vào trong và dắt xe mô tô biển số 77M1-6713 của chị Huỳnh Thị Kim Ch ra ngoài, dùng tay giật dây điện ở ổ khóa nổ máy, chạy xe tẩu thoát. Xe mô tô hiệu Julong, biển số 77M1-6713 có trị giá 2.800.000đ. Do đó, bị cáo Lê Xuân P đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là thanh niên đã trưởng thành nhưng vì lười lao động, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nên đã bất chấp các quy tắc đạo đức xã hội, quy định pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo đã bị kết án 04 lần cũng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích) nhưng bị cáo không lấy đó là bài học cho mình mà vẫn tiếp tục phạm tội, đã thể hiện bị cáo là người xem thường pháp luật nên xét thấy cần xử bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, sống tuân thủ pháp luật.

[3]. Khi lượng hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn là những tình tiết được áp dụng quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Về xử lý vật chứng: 01 xe mô tô hiệu JULONG biển số 77M1-6713 do anh Lê Ngọc Th đứng tên giấy chứng nhận đăng ký xe nhưng đã tặng cho chị Huỳnh Thị Kim Ch được sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định trả lại xe mô tô cho chị Ch (BL 17). Chị Ch đã nhận lại xe mô tô nêu trên và không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6]. Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.

[7]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom về tội danh và án phí phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Riêng đề nghị về hình phạt đối với bị cáo có phần nghiêm khắc, chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo và nhận định của Hội đồng xét xử tại mục [3].

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Lê Xuân P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Xuân P 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/4/2019.

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2019/HSST ngày 12/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:108/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về