Bản án 108/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 108/2019/HSST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 108/2019/TLST- HS ngày ngày 01 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn N, sinh năm 1980 tại tỉnh Nam Định, nơi cư trú: xóm H, thôn Đ, xã N1, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn L và bà: Tống Thị S; có vợ và 02 con; tiền án; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ ngày 18-01-2019, chuyển tạm giam ngày 27-01-2019; có mặt.

Người làm chứng: Anh Bùi Văn T, anh Trần Văn T (không triệu tập tham gia phiên tòa); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 18-01-2019, tổ công tác Công an phường Cửa Nam, thành phố Nam Định kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Văn N đang đi bộ một mình tại khu vực gầm cầu Đ, xã N, thành phố Nam Định. Quá trình kiểm tra, N thả từ tay phải xuống đất 01 túi ni lông màu trắng, mở kiểm tra bên trong có chứa bột dạng cục màu trắng, N khai là Heroine. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa N cùng người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắtngười phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật, ngoài ra còn tạm giữ của N01 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn N, 01 đăng ký xe ô tô biển kiểm soát T, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe ô tô biển kiểm soát T, 01 ví màu nâu, 01 chiếc ô tô nhãn hiệu M màu xanh biển kiểm soát T, 01 điện thoại Iphone màu vàng.

Bản Kết luận giám định số 110/GĐKTHS ngày 23-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, khối lượng: 0,817 (không phẩy tám trăm mười bảy) gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn N khai: Khoảng 13 giờ ngày 18-01-2019, N điều khiển xe ô tô nhãn hiệu M màu xanh biển kiểm soát T (mượn của anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1983, trú tại xóm H thôn Đ xã N1 huyện N tỉnh Nam Định) đến khu vực đền C. Đến nơi N để xe ô tô ở đầu đê Lạc Long Quân rồi đi bộ vào khu vực đền Cô Bơ gặp và mua của một nam thanh niên không rõ lai lịch đang đứng ở bờ sông 01 gói ma túy với số tiền 500.000 đồng. N cầm gói ma túy trên tay phải rồi đi bộ ra xe ô tô đi tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến khu vực gầm cầu Đò Quan, xã Nam Phong, thành phố Nam Định thì bị phát hiện, bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 112/CT-VKSTPNĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn N khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chấtma túy mục đích để sử dụng cho bản thân như bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 27 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn N không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

 [2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 18-01-2019, bị cáo Nguyễn Văn N bị Công an phường Cửa Nam thành phố Nam Định bắt quả tang cầm trong tay 01 gói chứa bột dạng cục màu trắng, N khai là Heroine để sử dụng cho bản thân. Bản Kết luận giám định số 110/GĐKTHS ngày 23-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng thu giữ của bị cáo là ma túy, loại ma túy: Heroine, khối lượng: 0,817 (không phẩy tám trăm mười bảy) gam. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích sử dụng cho bản thân, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

 [3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy và tội phạm. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

 [4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy. 01 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn N, 01 ví da màu nâu, 01 điện thoại di động Iphone tạm giữ của bị cáo, không phải công cụ, phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Đối với 01 chiếc ô tô nhãn hiệu M màu xanh biển kiểm soát T, 01 đăng ký xe ô tô biển kiểm soát T, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe ô tô biển kiểm soát T, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Văn L là đúng quy định của pháp luật.

 [6] Đối với người đã bán ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

 [7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 18-01-2019.

2. Xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 110/GĐKTHS; trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn N, 01 ví da màu nâu, 01 điện thoại di động Iphone nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 25-3-2019).

3. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn N phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:108/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về