Bản án 109/2019/HS-ST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 109/2019/HS-ST NGÀY 02/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 10 năm 2019, tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 96/2019/TLST-HS ngày 27/8/2019, theo Quyết định đưa vụ án xét xử số 105/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn Tr, sinh ngày: 16/5/1987. Nơi ĐKHKTT: Thôn 6, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng. Chỗ ở: Thôn 2, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng. Nghề nghiệp: lao động tự do. Trình độ văn hóa: lớp 12/12. Con ông Bùi Văn L (đã chết) và bà Lê Thị T. Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt quả tang ngày 20/6/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an thành phố Uông Bí, có mặt.

- Người chứng kiến:

1. Ông Bùi Văn Đ. Địa chỉ: Tổ 1, khu Hiệp An 2, phường p, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

2. Ông Lưu Văn Th. Địa chỉ: Tổ 29, khu 5, phường TV, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 30 phút ngày 20/6/2019, tại tổ 1, khu BĐ, phường Ph, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, tổ công tác Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 1 - Bộ tư lệnh Cảnh sát biển, phối hợp cùng Công an phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang bị cáo Bùi Văn Tr có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại túi quần phía trước bên phải đang mặc của bị cáo có 04 (bốn) gói giấy nhỏ màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. Ngoài ra, bị cáo còn bị tạm giữ: 01 (một) chiếc điện thoại di động Nokia màu vàng cùng sim số 0974411865, 01 (một) căn cước công dân mang tên Bùi Văn Tr và số tiền 10.000đ (mười nghìn đồng).

Tại bản Kết luận giám định số 328/KLGĐ ngày 20/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,5852g (không phảy năm tám năm hai gam), loại: Heroine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn Tr khai nhận: khoảng 13 giờ ngày 20/6/2019, bị cáo từ thành phố Hạ Long đón xe khách đến thành phố Hải Phòng để mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến khu vực hồ Tam Bạc, thành phố Hải Phòng, bị cáo hỏi mua 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) ma túy, loại heroine, của một người đàn ông không quen biết, sau đó cất 04 (bốn) gói ma túy vừa mua vào túi quần bên phải phía trước đang mặc, rồi đi bộ đến một khu tập thể cũ gần đó để sử dụng một ít ma túy vừa mua bằng hình thức hít. Tiếp đó, bị cáo cất số ma túy còn lại vào túi quần và đón xe đi làm tại thành phố Hạ Long. Khi xe đi đến khu vực tổ 1, khu BĐ, phường Ph, thành phố Uông Bí thì bị bắt quả tang.

Lời khai của những người chứng kiến: Ông Phạm Văn Đ và ông Lưu Văn Th được chứng kiến tại thời điểm bị cáo bị bắt giữ có lời khai thể hiện: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 20/6/2019 tại địa điểm tổ 1, khu Bạch Đằng 1, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, được chứng kiến lực lượng công an phát hiện và thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của bị cáo đang mặc có 04 (bốn) gói giấy màu trắng dạng giấy học sinh, bên trong có chất bột màu trắng, bị cáo khai là ma túy loại heroine, do bị cáo mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực hồ Tam Bạc, thành phố Hải Phòng. Công an đã tiến hành niêm phong 04 (bốn) gói giấy nêu trên và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu vàng cùng sim số trong máy là 0974411865 và số tiền 10.000đ (mười nghìn đồng) (bút lục số 53 đến 62).

Bản cáo trạng số 107/CT-VKSUB ngày 26/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo Bùi Văn Tr về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm truy tố với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Văn Tr từ 18 (mười tám) đến 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu và tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định; trả lại bị cáo số tiền 10.000đ (mười nghìn đồng).

Đi với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Bùi Văn Tr, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không làm rõ được để xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn Tr thừa nhận hành vi bị cáo đã thực hiện vào ngày 20/6/2019 như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người chứng kiến về thời gian, địa điểm bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (bút lục 33, 34); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (bút lục số 23) và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo khẳng định việc truy tố đối với bị cáo là đúng; không oan sai.

Như vậy đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 20/6/2019, tại tổ 1, khu Bạch Đằng 1, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, bị cáo Bùi Văn Tr bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,5852g (không phảy năm tám năm hai gam) ma túy, loại: heroine, mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo Bùi Văn Tr đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (thuộc trường hợp tàng trữ Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam) như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước ta. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện, mục đích để phục vụ cho việc sử dụng chất ma túy của bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo còn tiếp tay cho tệ nạn buôn bán trái phép chất ma túy ở địa phương, nên cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung; đáp ứng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng: 01 (một) chiếc điện thoại di động Nokia màu vàng cùng sim số bên trong, 01 (một) căn cước công dân mang tên bị cáo, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Lê Thị Thợi (mẹ bị cáo) để quản lý, bị cáo không có ý kiến gì, nên không đề cập xem xét.

Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy; số tiền 10.000đ (mười nghìn đồng) là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đi với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Bùi Văn Trường, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không làm rõ được để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn Tr phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Bùi Văn Tr 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt: 20/6/2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu và tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số 328/2019/PC09 hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng. Trả lại bị cáo số tiền 10.000đ (mười nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng trên thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh)

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Bị cáo Bùi Văn Tr phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2019/HS-ST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:109/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về