Bản án 110/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 110/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 217/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 246/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị S, sinh năm 1982 (Có mặt)

Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Trần Văn Bé E, sinh năm 1981 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị S trình bày: Chị và anh Trần Văn Bé E kết hôn vào năm 2012, trên cơ sở tự nguyên, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 07/01/2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu. Đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẩn không còn hạnh phúc nửa. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau, anh Bé E thường xuyên đi nhậu về đánh và chửi chị nhiều lần. Chị và anh Bé E đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nửa nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Bé E.

Về con chung: Chị và anh Bé E có 01 con chung là Trần Lê A, sinh ngày 04/3/2014. Hiện nay, cháu A đang sống với chị, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu A và không yêu cầu anh Bé E cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu tòa án xem xét giải quyết.

Bị đơn anh Trần Văn Bé E đã được tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời anh Bé E đến tòa tham dự các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và dự phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng anh Bé E vẫn vắng mặt không có lý do nên không có lời khai cũng như không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của chị S.

Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chị S đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh Bé E không thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị S đối với anh Bé E về việc xin ly hôn. Về con chung: Giao cháu Trần Lê A cho chị S tiếp tục nuôi dưỡng, anh Bé E không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Chị S khai không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; ý kiến của đương sự và đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lê Thị S yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh Trần Văn Bé E; địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh Trần Văn Bé E đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại tòa không có lý do nên tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Bé E là phù họp với quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị S và anh Bé E kết hôn vào năm 2012 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã P, huyện G cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 07/01/2013 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Theo chị S trình bày thì sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng có hạnh phúc được thời gian đầu. Về sau vợ chồng phát sinh mâu thuẩn nên không còn hạnh phúc nửa nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Bé E thường xuyên đi nhậu say về đánh và chửi chị nhiều lần. Chị và anh Bé E đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Căn cứ vào xác nhận của Công an xã P, huyện G thể hiện anh Bé E có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp P, xã P, huyện G. Tuy nhiên, anh Bé E đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại tòa không có lý do thì xem như anh Bé E đã tự tước bỏ quyền được chứng minh, trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị S và phải chịu hậu quả pháp lý của việc vắng mặt đó. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận lời khai và tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cũng như các chứng cứ đã thu thập được để làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Theo đó, qua xác minh tại địa phương thì anh Bé E thường xuyên nhậu say, gây gỗ ở địa phương. Hơn nữa, chị S và anh Bé E cũng đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định quan hệ hôn nhân giữa chị S và anh Bé E đã mâu thuẩn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị S đối với anh Bé E là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Theo trình bày của chị S và hồ sơ vụ án thể hiện chị S và anh Bé E có 01 con chung là cháu Trần Lê A, sinh ngày 04/3/2014. Cháu A hiện nay đang sống với chị S. Chị S yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu A. Anh Bé E vắng mặt nên không có ý kiến đối với yêu cầu nuôi con của chị S. Để đảm bảo quyền và lợi ích về mọi mặt của cháu A cần chấp nhận yêu cầu của chị S giao cháu A cho chị S tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại Điều 82, 83 của của Luật hôn nhân và gia đình thì chị S có quyền yêu cầu anh Bé E có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, chị S tự nguyện không yêu cầu anh Bé E cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị S trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Đối với anh Bé E vắng mặt không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị S phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp.

[4] Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Các Điều 147, khoản 3 Điều 228, 273, 278 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị S với bị đơn anh Trần Văn Bé E.

Chị Lê Thị S được ly hôn với anh Trần Văn Bé E.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Lê A, sinh ngày 04/3/2014 cho chị Lê Thị S trực tiếp trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ghi nhận việc chị S không yêu cầu anh Bé E cấp dưỡng nuôi con.

Anh Bé E được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị S khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Lê Thị S phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị S đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí Tòa án số: 0004177 ngày 20/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được thông báo, niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:110/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về