Bản án 110/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 110/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 116/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án Hình sự ra xét xử số 116/HSST-QĐ ngày 01/10/2019 đối với bị cáo:

Lò Văn Tr (tên gọi khác: không); Sinh ngày 03 tháng 8 năm 1976 tại huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Tiểu khu 3 thị trấn Hát Lót, huyện M, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 7/10; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn C, sinh năm 1954; Con bà: Hà Thị H, sinh năm 1956; Bị cáo có vợ Hoàng Thị Pâng, sinh năm 1976, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1995, con nhỏ nhất sinh năm 1998; Nhân thân: năm 2008 bị Tòa án nhân dân huyện M xét xử 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích), tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/6/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án: Bà Hoàng Thị Pâng (là vợ của bị cáo), sinh năm 1976, trú tại Tiểu khu 3, thị trấn Hát Lót, huyện M, tỉnh Sơn La, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 24/6/2019, Tr điều khiển xe máy nhãn hiệu Dream BKS 26B1-705.17 từ nhà Tiểu khu 3, thị trấn Hát Lót, huyện M lên khu vực tổ 4, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La thì gặp một người bạn tên là Hòa nhưng không biết tuổi và địa chỉ. Hòa gọi điện thoại rủ Tr tìm nơi sử dụng ma túy. Trường đồng ý, khi Tr đến gặp Hòa, Hòa đưa cho Tr 01 gói ma túy, Tr cất vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi điều khiển xe máy đến Hiệu thuốc tại khu vực phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La. Tr vào mua bơm kim tiêm để sử dụng thì bị tổ công tác Công an thành phố Sơn La phát hiện, lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, còn Hòa bỏ chạy đi đâu không rõ.

Cơ quan Công an thành phố Sơn La thu giữ được vật chứng gồm: 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng (theo lời khai của Tr là Heroine). Ngoài ra còn thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động Itel màu đen đã qua sử dụng, 01 xe máy nhãn hiệu HONDA Dream BKS 26B1-705.17 đã qua sử dụng.

Ngày 25/6/2019, Công an thành phố Sơn La tiến hành cân tịnh vật chứng, kết quả 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng có khối lượng 0,27 gam, trích rút 0,08 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T1, còn lại 0,19 gam lưu kho vật chứng ký hiệu T2.

Tại Kết luận giám định số 1166/KLMT ngày 26/6/2019 của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy, loại chất Heroine; Không hoàn lại mẫu vật gửi giám định”. Tổng khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo Lò Văn Trường là 0,27 gam Heroine.

Tại bản Cáo trạng số 111/CT-VKSTP ngày 19 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Lò Văn Tr về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn Tr khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn Tr phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lò Văn Tr từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 24/6/2019).

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự do bị cáo là người mắc nghiện ma túy, thu nhập thấp, gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị, bị cáo không có tài sản riêng.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01(một) chiếc phong bì KTHS Công an tỉnh Sơn La còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn Tr sinh năm 1976 Tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 24/6/2019” gồm 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh giấy màu trắng, mẫu lưu kho ký hiệu T2 = 0,19 gam; Đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu Itel đã qua sử dụng, trả bà Hoàng Thị Pâng 01 xe máy nhãn hiệu HONDA Dream BKS 26B1- 705.17 do không liên quan trong vụ án theo các điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo phải nộp 200.000,đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Ý kiến của bị cáo nhất trí như Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo tại phiên toà. Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào Nghị án, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất trong khung hình phạt để sớm được trở về với gia đình, cộng đồng và làm ăn lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Vào ngày 24/6/2019, Lò Văn Tr đã có hành vi Tàng trữ trái phép 0,27 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân, thì bị tổ công tác Công an thành phố Sơn La kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang. Hành vi nêu trên của Lò Văn Tr đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, như Quyết định truy tố và quan điểm luận tội tại phiên tòa của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

1. “Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai 01 năm đến 05 năm ”:

a)………… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo Lò Văn Tr với số lượng tàng trữ ma túy 0,27 gam Heroine là không lớn, mục đích tàng trữ ma tuý là để sử dụng cho bản thân, do bị cáo là người đang bị mắc nghiện ma túy. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do cố ý. Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm phát sinh, lây lan các tệ nạn xã hội. Hành vi đó là nguy hiểm, gây mất trật tự an ninh và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo đã được giáo dục, biết rõ tác hại của ma tuý đối với đời sống con người và xã hội, song vẫn cố tình phạm tội, nên cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 để xem xét, quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

Xét nhân thân bị cáo Lò Văn Tr không có tiền án, không có tiền sự, nhưng có nhân thân xấu. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện, có ích cho xã hội, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung, nhất là công tác phòng, chống tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Bị cáo đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[3] Ngoài hình phạt chính là phạt tù, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Song, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài sản, không có thu nhập, là người nghiện ma tuý, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đi với nguồn gốc 0,27 gam Heroine, bị cáo khai nhận do có người bạn tên là Hòa nhưng không biết tuổi và địa chỉ cho bị cáo để sử dụng, nên không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

[4] Về vật chứng vụ án: Cần tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc phong bì KTHS Công an tỉnh Sơn La còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn Tr sinh năm 1976 tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 24/6/2019” gồm 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh giấy màu trắng, mẫu lưu kho ký hiệu T2 = 0,19 gam; Đối với 01 điện thoại di động Itel màu đen đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo, bị cáo dùng liên lạc để thực hiện hành vi phạm tội, cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước; Đối với 01 xe máy nhãn hiệu HONDA Dream BKS 26B1-70517, chị Hoàng Thị Pâng (vợ bị cáo) xác định chiếc xe máy đó là tài sản chung của gia đình, có công sức đóng góp của chị Pâng nhiều hơn, chị không biết bị cáo Trường mang xe đi sử dụng ma túy, xét cần trả cho chị Hoàng Thị Pâng, là phù hợp với điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn Tr phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lò Văn Tr 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 24/6/2019).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc phong bì KTHS Công an tỉnh Sơn La còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn Tr sinh năm 1976 tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 24/6/2019” gồm 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh giấy màu trắng, mẫu lưu kho ký hiệu T2 = 0,19 gam; Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen, số Imei 1: 353511102403820, số Imei 2: 3535111024803838 đã qua sử dụng, trả chị Hoàng Thị Pâng trú tại Tiểu khu 3 thị trấn Hát Lót, huyện M, tỉnh Sơn La 01 xe máy nhãn hiệu HONDA Dream BKS 26B1-705.17, số máy HA08E1613204, số khung RLHHA0803AY313146, không có gương chiếu hậu bên phải, không có chìa khóa xe, yên xe bị rách, đã qua sử dụng (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/10/2019 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14: Buộc bị cáo Lò Văn Tr phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000,đ (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lò Văn Tr, bị hại Hoàng Thị Pâng có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:110/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về