Bản án 111/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 111/2019/HS-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07/5/2019 tại Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 92/2019/TLST-HS ngày 11/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Hoàng M; Tên gọi khác: T;

Sinh ngày 02 tháng 4 năm 2000; Tại: Tỉnh Đắk Lắk;

Nơi cư trú: Tổ dân phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo;

Con ông: Bùi Văn V, sinh năm: 1977; Con bà: Hoàng Thị Thu H, sinh năm:

1978; trú tại: Tổ dân phố A, phường T, thành phố B.

Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 31/10/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột Quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 16 tháng, bị cáo chưa chấp hành.

- Ngày 22/01/2019 thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” đến ngày 23/01/2019 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột khởi tố và bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. Buôn Ma Thuột cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Lê H – Sinh năm 1992

Địa chỉ: Đường H, thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai – Có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Phan Nữ Diễm T – Sinh năm 1989

Địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện C, Đắk Lắk – Vắng mặt

2. Ông Bùi Văn V – sinh năm 1977

Địa chỉ: TDP A, Phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk - Có mặt

3. Bà Hoàng Thị Thu H – sinh năm 1978

Địa chỉ: TDP A, Phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk - Có mặt

4. Bà Đặng Thị L – Sinh năm 1957

Địa chỉ: TDP A, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Hoàng M là người nghiện ma túy, nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Khoảng 06 giờ 15 phút ngày 22/01/2019, M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade biển số 47B2-235.00 (xe M mượn của cha ruột là ông Bùi Văn V), đi trên các con đường tại địa bàn thành phố B nếu thấy người dân nào có tài sản sơ hở sẽ trộm cắp. Khi đến dãy phòng trọ địa chỉ số Đường N, phường E, thành phố B, thấy cửa cổng dãy trọ mở, xung quanh vắng người qua lại nên M dừng xe phía trước dãy trọ rồi đi bộ vào trong. Khi thấy phòng trọ số 02 cửa đóng nhưng không khóa, M đẩy cửa phòng ra rồi đi vào bên trong, sau đó M đi theo cầu thang lên gác lửng thì thấy anh Lê H (sinh năm 1992, trú tại số Đường H, thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai) đang nằm ngủ, cạnh bên có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, ốp nhựa dẻo màu trắng và 01 chiếc ví da màu đen, M lén lút lấy trộm điện thoại và ví của anh H rồi cất giấu vào trong người. Sau đó, M điều khiển xe mô tô biển số 47B2-235.00 bỏ đi đến bãi đất trống đối diện Đường Y, phường E, thành phố B, thì dừng lại lục soát trong ví thấy có số tiền 7.005.000đồng (bảy triệu không trăm lẻ năm ngàn đồng) và 01 số giấy tờ tùy thân. M lấy hết tiền còn ví và giấy tờ thì vứt bỏ lại. M tiếp tục đến cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại Q địa chỉ: Đường L, phường T, thành phố B bán chiếc điện thoại trộm được cho chị Nguyễn Phan Nữ Diễm T với giá 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Bán xong tài sản trộm cắp M đi đến quán cà phê trên vỉa hè đường Đ, phường T, thành phố B uống cà phê cùng mẹ ruột là bà Hoàng Thị Thu H và bà ngoại là Đặng Thị L. Tại đây M cho bà H 1.000.000đ (một triệu đồng), trả nợ cho bà L 500.000đ (năm trăm ngàn đồng). Chiều cùng ngày, Cơ quan điều tra đã triệu tập M về làm việc và M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Ngày 23/01/2019, bà H và bà L đã giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 1.500.000đ.

Sau khi mua điện thoại của bị cáo Bùi Hoàng M thì chiều cùng ngày Nguyễn Phan Nữ Diễm T đã bán lại chiếc điện thoại này cho một người dân đi đường không xác định được lai lịch với giá 3.800.000đ (ba triệu tám trăm ngàn đồng), số tiền bán chiếc điện thoại trên chị T sau đó đã tiêu xài hết nên không tạm giữ được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 48/KLĐG ngày 01/3/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, dung lượng 128Gb có ốp nhựa dẻo trong suốt màu trắng, trị giá: 9.500.000đ;

- 01 ví da màu đen, loại gập đôi, trị giá: 70.000đ.

Tổng giá trị tài sản: 9.570.000đ (chín triệu năm trăm bảy mươi ngàn đồng) Tại bản Cáo trạng số 118/CT-VKS ngày 09/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Bùi Hoàng M về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Bùi Hoàng M khai nhận hành vi phạm tội đúng như đã khai nhận tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột và phù hợp với nội dung truy tố tại bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột.

Người bị hại anh Lê H đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Bùi Hoàng M tiếp tục bồi thường số tiền 8.375.000 đồng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Hoàng M và giữ nguyên quyết định truy tố tại bản Cáo trạng số 118/CT-VKSTP.BMT ngày 09/4/2019. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Hoàng M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Hoàng M với mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 23/01/2019.

* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47, Điều 48 BLHS; Điều 106 BLTTHS.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Tp. Buôn Ma Thuột trả lại chiếc xe mô tô biển số 47B2-235.00 cho chủ sở hữu là ông Bùi Văn V (bố của bị cáo M) nhận quản lý, sử dụng.

Đề nghị chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Tp. Buôn Ma Thuột trả lại số tiền 7.700.000đ (6.200.000đ thu giữ trên người bị cáo M, 1.500.000đ do bà H, bà L giao nộp) cho chủ sở hữu là anh H nhận quản lý sử dụng.

Đề nghị trả lại cho bị cáo M 01 mũ bảo hiểm màu trắng; 01 đôi dép màu xanh – đen có viền sọc trắng – xanh; 01 áo khoác màu đen ghi chữ PuMa và 01 chiếc quần Jean ống dài màu xanh là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tiếp tục tạm giữ để phục vụ cho việc truy tố, xét xử.

- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị chấp nhận việc bị cáo Bùi Hoàng M đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền 500.000đ.

Đề nghị chấp nhận yêu cầu của người bị hại anh Lê H, buộc bị cáo Bùi Hoàng M tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là: 8.375.000đ.

 NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Bùi Hoàng M tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 07 giờ 10 phút ngày 22/01/2019 tại phòng trọ số 02 địa chỉ: đường N, phường E, thành phố B, Bùi Hoàng M đã lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động Iphone 7plus và 01 ví da bên trong có số tiền 7.005.000đ của anh Lê H thì bị phát hiện xử lý. Tổng trị giá tài sản mà Bùi Hoàng M đã trộm cắp của anh H là: 16.575.000đ (mười sáu triệu năm trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).

Hành vi của bị cáo Bùi Hoàng M phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…” Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là công dân có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống và biết được rằng tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đều bị xử phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động nên bị cáo Bùi Hoàng M đã có hành vi trộm cắp tài sản của anh Lê H với tổng trị giá là 16.575.000đ (mười sáu triệu năm trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).

Hành vi của bị cáo không những đã xâm hại đến tài sản của người khác mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội địa phương. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm của mình và cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[2] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bồi thường khắc phục một phần cho người bị hại, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn và phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Các biện pháp tư pháp

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự.

- Đối với chiếc xe mô tô biển số 47B2-235.00, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là ông Bùi Văn V (bố của bị cáo M), việc bị cáo M sử dụng làm phương tiện phạm tội ông V không biết, do đó Cơ quan điều xử lý vật chứng trả lại cho ông V nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

- Đối với số tiền 7.700.000đ (6.200.000đ thu giữ trên người bị cáo M, 1.500.000đ do bà H, bà L giao nộp) Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả cho anh H nhận sử dụng là phù hợp.

- Đối với 01 mũ bảo hiểm màu trắng; 01 đôi dép màu xanh – đen có viền sọc trắng – xanh; 01 áo khoác màu đen ghi chữ PuMa và 01 chiếc quần Jean ống dài màu xanh là tài sản của bị cáo M không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo M.

- Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc bị cáo Bùi Hoàng M đã tác động gia đình bồi thường được cho người bị hại số tiền 500.000đ.

Chấp nhận yêu cầu của người bị hại anh Lê H, buộc bị cáo Bùi Hoàng M tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là: 8.375.000đ.

Đối với hành vi của chị Nguyễn Phan Nữ Diễm T mua lại chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus của bị cáo M và việc bà Hoàng Thị Thu H, bà Đặng Thị L được bị cáo M cho, trả nợ tiền, tuy nhiên chị T, bà H và bà L không biết đó là tài sản do M phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ, tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Hoàng M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Bùi Hoàng M 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 23/01/2019.

* Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 585, Điều 589 BLDS.

- Về xử lý vật chứng: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Tp. Buôn Ma Thuột trả lại chiếc xe mô tô biển số 47B2-235.00 cho chủ sở hữu là ông Bùi Văn V (bố của bị cáo M) nhận quản lý, sử dụng.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Tp. Buôn Ma Thuột trả lại số tiền 7.700.000đ (6.200.000đ thu giữ trên người bị cáo M, 1.500.000đ do bà H, bà L giao nộp) cho chủ sở hữu là anh H nhận quản lý sử dụng.

Trả lại cho bị cáo M 01 mũ bảo hiểm màu trắng; 01 đôi dép màu xanh – đen có viền sọc trắng – xanh; 01 áo khoác màu đen ghi chữ PuMa và 01 chiếc quần Jean ống dài màu xanh là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc bị cáo Bùi Hoàng M đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường được cho người bị hại số tiền 500.000đ.

Chấp nhận yêu cầu của người bị hại anh Lê H, buộc bị cáo Bùi Hoàng M tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là: 8.375.000đ.

* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo Bùi Hoàng M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 419.000 đồng án phí DSST.

Bị cáo, bị hại, người liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:111/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về