Bản án 111/2019/HSST ngày 15/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 111/2019/HSST NGÀY 15/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15/5/2019, Trụ sở Tòa án nhân dân, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 124/2019/HSST ngày 02 tháng 5 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Công T, Giới tính: Nam; Sinh ngày: 07/3/2001 (Khi phạm tội bị cáo 17 tuổi 10 tháng 16 ngày).

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 01, ngõ D, đường V, phường K, quận B, thành phố Hà Nội; Nơi ở hiện nay: Phòng 3*, Chung cư C*, số 28 X, quận T, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh ; Tôn giáo: Không; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Nguyễn Văn L; Sinh năm: 1977 và con bà Nguyễn Thị Kim D; Sinh năm: 1983. Gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 23/01/2019, tạm giữ từ ngày 24/01/2019 đến ngày 01/02/2019 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

Ngưi đại diện theo pháp luật cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị Kim D, sinh năm 1983 (Là bố mẹ đẻ); Nơi đăng ký HKTT: Số 01, ngõ D, đường V, phường K, quận B, thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị N – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Quý A, sinh năm 1993; Nơi đăng ký HKTT: Tổ 12, phường P, quận B, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 20 phút ngày 22/01/2019, Nguyễn Quý A sử dụng tài khoản Facebook “Long Lầm Lỳ” nhắn tin vào tài khoản Facebook “Thỏ Thành” của Nguyễn Công T hỏi mua 02 gói ma túy cần sa. T đồng ý bán cho A 02 gói ma túy cần sa với giá 200.000 đồng/01 gói. Sau đó T cho A số điện thoại 03633159** để liên lạc mua bán ma túy. Sau khi thỏa thuận bán ma túy cho A, khoảng 13 giờ ngày 23/01/2019, T đến đầu ngõ 8, Từ Hoa, Quảng An, Tây Hồ, Hà Nội mua 01 gói nilon cần sa của một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 1.500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T mang về nhà tại địa chỉ Phòng 30*, chung cư C10, số 28 X, quận T, TP. Hà Nội chia thành 07 gói nhỏ. Đến khoảng 14 giờ ngày 23/01/2019, A sử dụng số điện thoại 03451948** gọi vào số điện thoại của T hẹn đến ngõ 02 đường X, phường X, Bắc Từ Liêm, Hà Nội để mua bán ma túy. Đến khoảng 14 giờ 50 phút cùng ngày, T đi bộ đến ngõ 02 đường X, phường X, Bắc Từ Liêm, Hà Nội gặp A, khi Thành cầm 02 gói nilon cần sa trên tay phải chưa kịp đưa cho A thì bị tổ công tác công an phường Phúc Diễn phát hiện bắt giữ.

Vt chứng thu giữ gồm:

+ Thu giữ của Nguyễn Công T: 02 gói nilon có kích thước (3x5) cm bên trong chứa thảo mộc khô (T khai là ma túy cần sa) và 01 điện thoại Nokia Lumia màu vàng, số sim 03633159**;

+ Thu giữ của Nguyễn Quý A: Số tiền 400.000 đồng và 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen, số sim: 03451948**.

+ Đồng thời, T tự nguyện giao nộp 05 gói nilong cần sa khác để trong túi áo khoác bên trong phía bên trái.

Ngày 24/01/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định trưng cầu giám định số 231 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội giám định số ma túy thu giữ của Nguyễn Công T. Tại bản kết luận giám định số 862/KLGĐ-PC09 ngày 31/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định:

- Thảo mộc khô bên trong 02 gói nilon đều là cần sa, tổng khối lượng 9,242 gam

Thảo mộc khô bên trong 05 gói nilon đều là cần sa, tổng khối lượng là 20,932 gam.

Ti Cơ quan điều tra, Nguyễn Công T đã khai nhận nội dung như trên và khai bản thân nghiện ma túy cần sa nên khi Nguyễn Quý A gọi điện hỏi mua ma túy cần sa, T đã đồng ý bán ma túy cho A để kiếm lời, đây là lần đầu tiên T bán ma túy thì bị bắt giữ, chiếc điện thoại Nokia Lumia màu vàng có số sim 03633159** là tài sản của T đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy với A. Đối với 05 gói ma túy cần sa T mang theo người với mục đích để sử dụng và nếu có ai hỏi mua thì bán.

Ti Cơ quan điều tra, Nguyễn Quý A khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Công T. Xét nghiệm tìm chất ma túy trong nước tiểu của A cho kết quả âm tính. Đối với số vật chứng bị Cơ quan điều tra thu giữ, A khai: Số tiền 400.000 đồng là tiền A định trả cho T để mua 02 gói cần sa; 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen, số sim: 03451948** A sử dụng để liên lạc mua ma túy với T. Đối với Nguyễn Quý A có hành vi mua ma túy của Nguyễn Công T nhưng chưa nhận được ma túy từ T thì bị Cơ quan Công an phát hiện nên không đủ căn cứ để xử lý A về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đi với đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Công T, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để mở rộng điều tra và xử lý.

Ti bản cáo trạng số: 98/CT-VKS ngày 23/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội quyết định truy tố Nguyễn Công T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Ti phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại điện Viện kiểm sát giữ luận tội, nguyên quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

+ Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Công T mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

Do bị cáo T là người chưa thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đề nghị Toà án tuyên tịch thu tiêu huỷ số ma tuý là vật chứng của vụ án. Tịch thu sung quỹ Nhà nước tiền, điện thoại di động các bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy.

Ni bào chữa cho bị cáo T: Xác định bản cáo trạng truy tố Nguyễn Công T về tội mua bán trái phép chất ma tuý là đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội khi chưa thành niên, bị cáo chỉ học đến lớp 7 phải nghỉ học nên khả năng nhận thức còn hạn chế. Số lượng ma túy không lớn, bị cáo lần đầu phạm tội, gia đình bị cáo hoàn cảnh (đông em) nên bị cáo thiếu sự quan tâm, chăm sóc của bố, mẹ. Căn cứ Điều 91 của Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, rõ ràng, phù hợp với quy định của pháp luật; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những căn cứ xác định tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, vật chứng được thu giữ, kết luận giám định, biên bản phạm pháp quả tang, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Hi đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 50 phút ngày 23/01/2019, tại ngõ 02 đường X, phường X, quận B, thành phố Hà Nội, Nguyễn Công T có hành vi bán trái phép cho Nguyễn Quý A 02 gói ma túy cần sa khối lượng 9,242 gam nhưng A chưa kịp nhận ma túy từ T thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Ngoài ra, T còn tàng trữ 05 gói ma túy cần sa khối lượng 20,932 gam với mục đích bán cho các con nghiện. Nguyễn Công T phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép 30,174 gam cần sa.

Hành vi của bị cáo đủ dấu hiệu hoàn thành của tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội. Xét hành vi của bị cáo không thuộc trường hợp nào của tình tình tiết tăng nặng định khung ở Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự ở khung cơ bản của Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới chính sách quản lý, kiểm soát ma túy, chính sách phòng ngừa, ngăn chặn tệ nạn ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ đối với con người, không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, ma tuý còn làm tha hoá đạo đức, huỷ hoại sức khoẻ, nòi giống của người sử dụng nó, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh nguy hiểm và là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích là để trục lợi. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhằm đảm bảo tính răn đe, giáo dục riêng đối với từng bị cáo và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội nên áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 của bộ luật hình sự. Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội; bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, nên áp dụng cho bị cáo hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2 Điều 51 và Điều 91 của Bộ luật hình sự và chính sách pháp luật đối với người chưa thành niên, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, động cơ, mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, nhân thân của bị cáo, xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người chưa thành niên phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Đi với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Quý A công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội xử lý như trong cáo trạng và trong hồ sơ vụ án là đúng quy định của pháp luật.

Xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy: Số ma túy thu giữ của Nguyễn Công T.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại Nokia Lumia màu vàng, số sim 03633159**;

+ 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen, số sim: 03451948**.

+ Số tiền 400.000 đồng.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.  

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1,2 Điều 51; Điều 38; Điều 91 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công T 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được trừ 09 ngày tạm giữ từ ngày 24/01/2019 đến ngày 01/02/2019.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy: 02 phong bì đã niêm phong bên trong chứa chất ma túy đã giám định (xác định là ma túy cần sa), bên ngoài phong bì có chữ ký giáp lai của Nguyễn Công T và giám định viên.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại Nokia Lumia màu vàng, lắp số thuê bao 03633159** đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

+ 01 điện thoại di động nokia 1280 màu đen lắp số thuê bao 03451948**, đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.

+ Số tiền 400.000đồng.

(Đặc điểm, số lượng, tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số 151/19 ngày 26/4/2019).

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Khoản 1 Điều 23; Khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Công T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện theo pháp luật của bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2019/HSST ngày 15/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về