Bản án 11/2017/HSST ngày 16/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 11/2017/HSST NGÀY 16/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2017/HSST ngày 13 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Vì Văn T. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 27.6.1998, tại huyện A, tỉnh A1.Nơi đăng ký HKTT và nơi ở: Bản A2, xã A3, huyện A, tỉnh A1.Trình độ học vấn: Không. Nghề nghiệp: Không. Dân tộc: Sinh mun - Tôn giáo: Không.

-Bố: Không xác định được bố đẻ. Mẹ: Vì Thị B, sinh năm 1984, nghề nghiệp: Trồng trọt. Hiện ở bản A2, xã A3, huyện A, tỉnh A1.Vợ, con: Không.

- Tiền án, tiền sự: Không

- Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Bà Hoàng Thị M. Sinh năm: 1969. Trú tại: Bản A2, xã A3, huyện A, tỉnh A1. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Vì Văn S, sinh năm: 1989; Trú quán: Bản A2, xã A3, huyện A, tỉnh A1. Vắng mặt

- Vì S, sinh năm: 1989; Trú quán: Bản A2, xã A3, huyện A, tỉnh A1. Vắng mặt.

- Vì X, sinh năm: 1995; Trú quán: Bản A2, xã A3, huyện A, tỉnh A1. Vắng mặt.

- Vì R, sinh năm: 1990; Trú quán: Bản A2, xã A3, huyện A, tỉnh A1. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 22/4/2017 đến ngày 30/4/2017, Vì Văn T đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của gia đình bà Hoàng Thị M. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 14 giờ ngày 22.4.2017, Vì Văn T đi bộ từ nhà ở của T đến nhà của gia đình Hoàng Thị M cùng bản chơi. Khi đến nhà M, T thấy cửa chính vào nhà khép không khóa, quan sát không thấy có người ở nhà nên T nảy sinh tư tưởng trộm cắp tài sản của gia đình M. T đi theo cầu thang lên gác xép, lấy 01 bao ngô giống nhãn hiệu ĐK 9955, trong bao có 20 túi nhỏ, mỗi túi có trọng lượng 1kg, vác đi xuống theo lối cầu thang ra ngoài và cất giấu ở bụi cây ven đường dân sinh, cách nhà M khoảng 50m rồi đi về nhà. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, T ra nơi cất giấu bao ngô đã trộm cắp được, mở bao lấy ra 11 túi đem đến nhà Vì Văn S cùng trú tại bản A2, xã A3, huyện A, tỉnh A1, 09 túi còn lại T cất giấu ở vị trí cũ. Gặp S đang ở nhà T đặt vấn đề bán số ngô trên cho S với giá 200.000VNĐ, do không có tiền nên S nói với T đổi bằng gạo thì T đồng ý. S bảo vợ là Vì Thị J lấy gạo đổi cho T, chị J lấy 09 bát gạo đổ vào bao đựng ngô giống và đưa cho T.

T đem gạo về nhà cất rồi quay lại nơi cất giấu ngô, lấy 08 túi ngô giống đem đến nhà Vì S là người cùng bản, gặp S đang ở nhà T hỏi S có mua ngô không, S nói không có tiền, T bảo S có bao nhiêu tiền thì đưa cho T, S lấy từ trong túi ra 120.000 VNĐ đưa cho T, T nhận tiền và bảo S còn 30.000VNĐ hôm nào trả nốt. Sau khi bán 08 túi ngô giống cho S, T tiếp tục quay lại nơi cất giấu ngô, lấy 01 túi ngô giống còn lại đem đến nhà Vì X, là người cùng bản để bán nhưng S không có tiền nên bảo T đợi để Sinh đi vay tiền. Vì X đã đến nhà Hoàng Thị M ở cùng bản hỏi vay 100.000VNĐ, M hỏi S vay tiền làm gì, S nói vay tiền để mua ngô giống của T. M cho Vì X vay 100.000VNĐ, S về hỏi T bán bao nhiêu tiền một cân ngô, T nói là hai mươi nghìn, S lấy 20.000VNĐ trả cho T và đem trả lại cho M số tiền 80.000.000VNĐ. Sau khi có được số tiền 140.000VNĐ do bán ngô trộm cắp có được, T đã tiêu sài hết số tiền trên. Đến ngày 26.4.2017, Hoàng Thị M kiểm tra lại số ngô giống đã cất trên gác xép của gia đình thì phát hiện bị mất trộm 01 bao ngô giống ĐK9955 loại 20kg (trong bao có 20 túi loại 1kg), M nghi ngờ T là người đã lấy trộm số ngô trên nên đã gọi Vì Văn T đến để hỏi và nói với T bán cho ai thì chỉ chỗ để gia đình M đi chuộc về. Vì Văn T thừa nhận đã trộm cắp 01 bao ngô giống ĐK9955 của gia đình Hoàng Thị M vào ngày 22.4.2017 và khai nhận những nơi T đã đổi, bán số ngô trên. Hoàng Thị M và Vì Văn T cùng Vì Thị Bánh (mẹ đẻ của T) đã đi chuộc lại toàn bộ 20 túi ngô giống trên (tiền chuộc của chị M). Đối với số gạo đổi ngô cho gia đình Vì Văn S, do chưa sử dụng nên Vì Thị Bánh đã đem trả lại cho Vì Văn S, Hoàng Thị M đã trả cho Vì S 120.000VNĐ, trừ nợ 20.000VNĐ là số tiền Vì X đã vay của chị Hoàng Thị M.

Vụ thứ hai: Khoảng 09 giờ ngày 30.4.2017, T đi bộ từ nhà ở đến nhà Hoàng Thị M, khi đó chiếc xe Uoát (loại xe Uóat thùng) của gia đình M đang đỗ ở trong sân, cạnh đường đi của bản, quan sát thấy không có người nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, T dùng tay kéo cửa cabin xe, thấy cửa xe không khóa nên T trèo lên cabin, thấy có 01 bao tải bên trong có 08 lọ thuốc trừ cỏ nhãn hiệu Confron 480SL, T lấy và đem cất giấu ngoài cống thoát nước cách nhà Hoàng Thị M 15m sau đó đi về nhà. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, T ra lấy bao đựng 08 lọ thuốc diệt cỏ đem đến nhà Vì R cùng trú tại bản Nà Hiên, xã Phiêng Pằn, huyện Mai Sơn và bán cho Trường 01 lọ với giá 40.000VNĐ, còn lại 07 lọ, T gửi lại nhà của Trường và hẹn đến sáng 01.5.2017 sẽ đến lấy. Sáng ngày 01.5.2017, Hoàng Thị M phát hiện mất trộm 08 lọ thuốc diệt cỏ để trên xe Uoát của gia đình, M đã gọi Vì Văn T đến nhà để hỏi thì T đã thừa nhận và khai đã bán cho Vì R 01 lọ giá 40.000VNĐ, còn lại 07 lọ đang gửi tại nhà ở của gia đình Vì R. Sau đó Hoàng Thị M đã cùng T đến nhà Vì R để lấy lại 08 lọ thuốc diệt cỏ trên, T đã trả lại cho Vì R số tiền 40.000VNĐ. Cùng ngày, Hoàng Thị M đã làm đơn trình báo và đề nghị Đồn biên phòng Phiêng Pằn và Công an xã Phiêng Pằn điều tra xử lý đối với Vì Văn T về hành vi trộm cắp tài sản của gia đình chị trong các ngày 22.4. 2017 và ngày 30.4.2017, đồng thời Hoàng Thị M đã giao nộp toàn bộ vật chứng gồm 20kg ngô giống và 08 lọ thuốc diệt cỏ mà T đã trộm cắp của gia đình cho cơ quan công an để phục vụ công tác điều tra.

Ngày 05.6.2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn đã ra Quyết định trưng cầu Hội đồng định giá huyện Mai Sơn định giá 20kg ngô giống nhãn hiệu ĐK 9955 và 08 lọ thuốc diệt cỏ nhãn hiệu Confron 480SL mà Vì Văn T đã trộm cắp của gia đình Hoàng Thị M.

Ngày 06.6.2017, Hội đồng định giá tài sản huyện Mai Sơn ra bản kết luận giám định số 559/KL-HĐ kết luận: 20kg ngô giống nhãn hiệu ĐK9955có trị giá là: 2.200.000VNĐ, 08 lọ thuốc diệt cỏ nhãn hiệu Confron 480SL có trị giá là 440.000VNĐ.

Bản cáo trạng số 89/KSĐT-MT ngày 13/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Vì Văn T về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Vì Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý bị cáo T nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật và không đề nghị bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội đối với bị cáo và đã giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Vì Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo T từ 06 đến 09 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc tại phiên tòa bà Hoàng Thị M không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Vì Văn T tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát, ý kiến của người bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiến nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét hành vi của bị cáo Vì Văn T thì thấy rằng: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận: Trong các ngày 22.4.2017 và ngày 30.4.2017, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của gia đình Hoàng Thị M, bị cáo đã lén lút thực hiện hành trộm cắp 20kg ngô giống nhãn hiệu ĐK 9955 và 08 lọ thuốc diệt cỏ nhãn hiệu Confron 480SL có tổng trị giá là 2.640.000 VNĐ với mục đích tư lợi cá nhân.Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, biên bản xác định giá trị tài sản ban đầu, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, Kết luận định giá tài sản;phù hợp với biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo, biên bản lấy lời khai đối với người bị hại và những người liên quan... và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn.

Như vậy đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Vì Văn T đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản.Việc truy tố và xét xử các bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

Điều 138 BLHS quy định: Tội trộm cắp tài sản

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, Hội đồng xét xử thấy rằng: hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp quyền sở hữu tài sản của người khác và ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn.

Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nhưng có nhân thân xấu. Mặc dù bi cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, dân sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật. Nhưng để có tiền tiêu sài, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong thời gian chờ xử lý, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và bị Công an xã Phiêng Pằn xử phạt vi phạm hành chính. Do đó xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định M có tác dụng cải tạo giáo dục đối với bị cáo, đồng thời M có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên,bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểmh, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 sẽ được Hội đồng xét xử áp dụng để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo phần nào.

Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên toà thấy rằng, gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị, thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo của xã. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án:

Toàn bộ số tài sản bị cáo trộm cắp gồm 20 túi = 20 kg ngô giống nhãn hiệu ĐK 9955 và 08 lọ thuốc diệt cỏ nhãn hiệu Confron 480SL đã được cơ quan điều tra công an huyện Mai Sơn trao trả cho người bị hại Hoàng Thị M. Việc trao trả của cơ quan điều tra công an huyện Mai Sơn là phù hợp với quy định của pháp luật. Cần chấp nhận.

Về bồi thường dân sự: Người bị hại bà Hoàng Thị M tại phiên tòa không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Vì Văn S, Vì S, Vì X, Vì R là những người đã mua và trao đổi tài sản trộm cắp với bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định được các đối tượng trên không biết đó là tài sản bị cáo trộm cắp được. Đồng thời họ đã trao trả toàn bộ cho người bị hại, và nhận lại số tiền, số hàng đã trao đổi ban đầu với bị cáo. Vì Văn S, Vì S, Vì X, Vì R không có yêu câu gì về dân sự đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Bị cáo là dân tộc thiểu số ở xã Phiêng Pằn là xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, và đồng thời cũng thuộc thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo của xã. Có yêu cầu được đề nghị được miễn tiền án phí. Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Hội đồng xét xử sẽ miễn cho bị cáo tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vì Văn T phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

1. Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999:

Xử phạt bị cáo Vì Văn T 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án:

Chấp nhận việc cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn đã trao trả lại toàn bộ tài sản bị cáo trộm cắp gồm 20 túi = 20 kg ngô giống nhãn hiệu ĐK 9955 và 08 lọ thuốc diệt cỏ nhãn hiệu Confron 480SL cho gia đình người bị hại Hoàng Thị M.

3. Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc bà Hoàng Thị M không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

4. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vì Văn T.

Báo cho bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

373
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2017/HSST ngày 16/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:11/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về