Bản án 11/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH TRỊ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 11/2018/HS-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 19 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:08/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Lý Văn Đ, sinh năm 1979 tại huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Nơi cư trú: Ấp An T, xã An T 1, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn K và bà Hồ Thị P; vợ, con: Có vợ đã ly hôn và có một người con sinh năm 2006; tiền án: Không, tiền sự: Về tiền sự vào ngày 30/11/2016 bị Ủy ban nhân dân huyện Cù Lao Dung xử phạt vi phạm hành chính số tiền 7.500.000 đồng về hành vi tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền (đã chấp hành xong); nhân thân: Không có án tích; bị bắt, tạm giam từ ngày10/5/2018 đến nay (Bị cáo có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Lưu Huy T (Út R), sinh năm 1986 (Có mặt).

Địa chỉ: Số A Trương Công Đ, khóm P, phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

2/ Ông Lý Dũ S, sinh năm 1987 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp Bưng T A, xã An H, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.

Người chứng kiến: Ông Võ Văn T, sinh năm 1963 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp Trà D, xã Lâm K, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 45 phút ngày 09/5/2018, tại ấp Trà D, xã Lâm K, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Trị tiến hành kiểm tra xe ô tô Fortuner, hiệu Toyota, mang biển số kiểm soát 83A- 002.64 do bị cáo Lý Văn Đ điều khiển, tại hiện trường bị cáo đang chuyển thuốc lá điếu ngoại nhập lậu từ trên xe để xuống lộ, Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo.

Vật chứng thu giữ được tại hiện trường gồm: 05 bao ni lông màu trắng và 06 bọc ni lông màu đen bên trong có 3.810 bao thuốc lá điếu nhập lậu, trong đó: 2.100 bao hiệu Jet, 1.710 bao hiệu Hero; tiềnViệt Nam 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) và thu giữ một số giấy tờ kèm theo xe. Các vật chứng đều được niêm phong theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số 08/CT-VKSTT ngày 16/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Trị truy tố bị cáo Lý Văn Đ về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm e khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo Lý Văn Đ khai nhận: 05 bao ni lông màu trắng và 06 bọc ni lông màu đen bên trong có chứa 3.810 bao thuốc lá điếu nhập lậu là do bị cáo nhận vận chuyển thuê cho một người đàn ông tên Quang (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) từ huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang về tỉnh Sóc Trăng với tiền công vận chuyển là 500.000 đồng. Bị cáo đồng ý và hỏi địa điểm giao hàng, thì được ông Quang chỉ đường đến ấp Trà D, xã Lâm K, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng, chạy xe qua cống rồi rẽ trái chạy thêm một đoạn gặp nhà nào có để vài chiếc ô tô tải thì có người ra nhận hàng. Bị cáo làm theo hướng dẫn, khi đi đến khu vực ấp Trà D, xã Lâm K, nhìn thấy một nhà xe có 2 chiếc ô tô tải loại lớn nên bị cáo dừng xe lại và để hàng xuống lộ, khi đang chuyển 05 kiện hàng từ trên xe xuống lề lộ thì bị Công an huyện Thạnh Trị bắt quả tang cùng với tang vật. Bị cáo nhận thức được hành vi vận chuyển hàng cấm của mình là vi phạm pháp luật đồng thời xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lưu Huy T trình bày: Vào ngày 08/5/2018 ông có lấy chiếc xe ô tô Fortuner, hiệu Toyota, mang biển số 83A-002.64 do Lý Dũ S đứng tên chủ sở hữu cho bị cáo Đ thuê với giá 800.000 đồng/ngày, việc cho thuê xe ông có bàn bạc với ông S và được ông S đồng ý, chỉ thỏa thuận miệng, không làm hợp đồng, thuê bao nhiêu ngày thì tính tiền bấy nhiêu, lúc cho thuê xe bị cáo có nói để chở khách đi đánh bạc ở biên giới giáp ranh Campuchia chứ không biết bị cáo dùng xe vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lý Dũ S trình bày: Do bạn với ông Lưu Huy T, nên ông có giao chiếc xe ô tô do ông đứng tên chủ sở hữu biển số 83A-002.64 cho ông T quản lý để cho người khác thuê, ngày 08/5/2018 ông T có báo cho ông biết là cho một người khách thuê xe, nhưng không biết là bị cáo thuê xe để vận chuyển hàng cấm. Tại phiên tòa ông không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự và yêu cầu được nhận lại xe do bị Công an huyện Thạnh Trị tạm giữ.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố, phân tích, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lý Văn Đ phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm”.

- Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm e khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Lý Văn Đ mức án từ 02 đến 03 năm tù.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số thuốc lá điếu nhập lậu. Hoàn trả các giấy tờ và xe ô tô cho ông Lý Dũ S. Giao trả cho bị cáo số tiền50.000.000 đồng và một chiếc điện thoại di động.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Tại lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố:

Điều tra viên, Kiểm sát viên, cơ quan điều tra và cơ quan Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan quan tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật thu giữ được và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Ngày 09/5/2018, bị cáo Lý Văn Đ đã có hành vi vận chuyển hàng cấm là 3.810 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó 2.100 bao hiệu Jet, 1.710 bao hiệu Hero) từ huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang về ấp Trà D, xã Lâm K, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng nhằm mục đích kiếm tiền.

Vì vậy, bản Cáo trạng số 08/CT-VKSTT ngày 16/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Trị truy tố bị cáo Lý Văn Đ về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điều luật đã viện diễn ở trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ số thuốc lá điếu hiệu Jet và Hero mà bị cáo được thuê vận chuyển do nước ngoài sản xuất, được đưa vào Việt Nam bằng con đường không chính ngạch, không có tem nhập khẩu cũng như hóa đơn, chứng từ hợp pháp, nhưng vì động cơ kiếm tiền nên đã đồng ý vận chuyển trái phép. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại, xâm phạm đến trật tự xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý bằng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy rằng: bị cáo chưa có tiền án, về tiền sự vào ngày 30/11/2016 bị UBND huyện Cù Lao Dung xử phạt vi phạm hành chính 7.500.000 đồng về hành vi tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền (đã chấp hành xong được xem không tiền sự). Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo thành khẩn, bị cáo có con chưa thành niên nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Ngoài ra, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

 [2.2] Về xử lý vật chứng: Số thuốc lá điếu ngoại nhập lậu bị thu giữ là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với những vật chứng còn lại gồm:01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, số IMEI 013333009068453 cùng với một sim mạng Viettel 4G có số seri 8984048000014631318 thuộc sở hữu của bị cáo nên trả lại cho bị cáo. 

Riêng đối với số tiền 50.000.000 đồng thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra bị cáo khai nhận do một người phụ nữ tên Phụng (không rõ họ tên, địa chỉ) thuê bị cáo chở đi huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, khi đến gần cửa khẩu giáp Campuchia thì bà Phụng xuống xe và có gửi cho bị cáo 50.000.000 đồng tiền mặt nhờ giữ dùm, khi về Sóc Trăng thì có người sẽ chủ động liên hệ để nhận tiền. Xét thấy, quá trình điều tra không chứng minh được số tiền này do phạm tội mà có, Cơ quan điều tra đã thông báo trên các phương tiện truyền thông nhưng không có chủ sở hữu đến để yêu cầu nhận lại tiền. Hơn nữa trong lúc bắt người phạm tội quả tang bị cáo đang là người quản lý số tiền trên. Như lời bị cáo khai nhận thì đây là giao dịch dân sự giữa bị cáo và người phụ nữ tên Phụng. Nên cần thiết giao trả số tiền trên cho bị cáo tiếp tục quản lý. Nếu các bên có phát sinh tranh chấp thì có quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự.

Các vật chứng khác gồm:

- 01 (một) chiếc xe ô tô (loại 7 chỗ) hiệu TOYOTA - FORTUNE KUN 60L- NKMSHU, số máy 2 KD 7811988, số khung RL4ZR 69GX94001048, màu bạc, biển kiểm soát 83A- 002.64;

- 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 008529 biển số đăng ký 83A- 002.64, đứng tên chủ sở hữu Lý Dũ S;

- 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số 4458660;

- 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe ô tô số 003525832;

- 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số 0327025;

- 01 (một) biên lai thu tiền phí sử dụng đường bộ số 0001807 ngày 15/3/2018;

- 01 (một) hóa đơn giá trị gia tăng số 0506121 ngày 15/3/2018;

Các vật chứng trên thuộc sở hữu của ông Lý Dũ S, ông S không biết bị cáo dùng xe của mình để vận chuyển hàng cấm, nên không phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của bị cáo. Cần hoàn trả lại cho ông S là phù hợp theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2.3] Từ những phân tích nêu trên toàn bộ đề nghị của Viện kiểm sát về áp dụng pháp luật, mức hình phạt, cũng như về xử lý vật chứng đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.4] Đối với người đàn ông tên Quang đã thuê bị cáo vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu từ huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang về tỉnh Sóc Trăng, do chưa xác định được cụ thể tên, tuổi, địa chỉ ở đâu nên cơ quan điều tra chưa có căn cứ để xử lý, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[2.5]. Đối với trách nhiệm dân sự do ông Lý Dũ S không yêu cầu đối với bị cáo Đặng, Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.6] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơthẩm 200.000 đồng theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm e Khoản 2 Điều 191, điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[1]. Tuyên bố bị cáo Lý Văn Đ phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Xử phạt: Lý Văn Đ 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính kể từ ngày tạm giữ bịcáo ngày 10/5/2018.

[2]. Xử lý vật chứng:

Căn cứ Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên bố tịch thu tiêu hủy 3.810 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó 2.100 bao hiệu Jet, 1.710 bao hiệu Hero).

Căn cứ Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, trả cho ông Lý Dũ S các tài sản gồm:

- 01 (một) chiếc xe ô tô (loại 7 chỗ) hiệu TOYOTA - FORTUNER KUN60L- NKMSHU, số máy 2 KD 7811988, số khung RL4ZR 69GX94001048, màu bạc, biển kiểm soát 83A- 002.64;

- 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 008529 biển số đăng ký 83A- 002.64, đứng tên chủ sở hữu Lý Dũ S;

- 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số 4458660;

- 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe ô tô số 003525832;

- 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số 0327025;

- 01 (một) biên lai thu tiền phí sử dụng đường bộ số 0001807 ngày15/3/2018;

- 01 (một) hóa đơn giá trị gia tăng số 0506121 ngày 15/3/2018;

Trả cho bị cáo Lý Văn Đ vật chứng gồm: 01 (một) điện thoại di động hiệuIphone, màu đen, số IMEI 013333009068453 cùng với một sim mạng Viettel4G có số seri 8984048000014631318 và số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).

Hiện các vật chứng nêu trên đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng, riêng số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) do Kho bạc Nhà nước huyện Thạnh Trị đang quản lý.

[3]. Đối với trách nhiệm dân sự do ông Lý Dũ S không yêu cầu đối với bị cáo Đ, Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lý Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh SócTrăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:11/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Trị - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về