Bản án 11/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 11/2018/HS-ST NGÀY 23/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 257/2017/HSST ngày 20/12/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2018/QĐXXST-HS ngày 09/01/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu T; Giới tính: Nữ; sinh năm 1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 4/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Văn H và bà Lợi Ngọc T; Hoàn cảnh gia đình: có chồng tên Trần Tuấn K, có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2011; Nhân Thân: Năm 2000, bị cáo bị bắt đưa vào trường giáo dưỡng Xuân An tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, theo Quyết định số 214 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, thời hạn 24 tháng, đến ngày 10/8/2002 chấp hành xong; Tiền án: 02,

-(1) Ngày19/4/2010, Tòa án nhân dân quận Tân Bình tuyên xử bị cáo 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, được hoãn chấp hành án. Ngày 28/8/2012, Tòa án nhân dân Quận 7 tuyên xử bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo kháng cáo, ngày 24/01/2013 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phúc thẩm tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù tổng hợp 01 năm tù theo bản án số 81/2010/HSST ngày 19/04/2010 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 02 năm 06 tháng tù, đến ngày 12/6/2014 chấp hành xong hình phạt tù;

- (2) Ngày 09/1/2015, Tòa án nhân dân Quận 6 tuyên xử bị cáo 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” đến ngày11/9/2017 chấp hành xong hình phạt tù; Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày 23/10/2017(có mặt)

Bị hại:

1/ Bà Nguyễn Thị T L, trú tại: xã Phú Riềng, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước. (Vắng mặt)

2/ Bà Lê Thị Bích N, trú tại: phường 14, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 ngày 24/10/2017, Nguyễn Thị Thu T một mình đi đến chợ Hạnh Thông Tây, phường 11, quận Gò Vấp tìm người sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi T đến trước sạp số 400 thì T phát hiện chị Nguyễn Thị T L, sinh năm 1999, đang mua giày, trên người có đeo 01 giỏ xách. Lúc này, T đi lại chỗ chị L lén lút mở giỏ xách lấy 01 cái bóp bên trong có 600.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Oppo Neo 7 màu trắng, T lấy tài sản đút vào túi quần, vứt bỏ cái bóp rồi bỏ đi. Ngay lúc đó, chị L phát hiện mất bóp nên đuổi theo T giữ lại và yêu cầu anh Huỳnh P, sinh năm 1972, là chủ sạp giày cho xem lại camera thì thấy hình ảnh T trộm cắp tài sản của mình nên báo Công an phường 11 đưa T về trụ sở lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Thu T đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Ngoài vụ trộm cắp nêu trên, T còn khai nhận vào ngày 23/10/2017 đã thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản số tiền 11.000.000 đồng tại Shop quần áo Ngọc Tuyết, địa chỉ: chợ Hạnh Thông Tây, phường 11, quận Gò Vấp. Qua điều tra đã xác định số tiền 11.000.000 đồng bị mất trộm vào ngày 23/10/2017 tại Shop quần áo Ngọc Tuyết, chợ Hạnh Thông Tây.

Quá trình điều tra, chị Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1994, ngụ tại phường 11, quận Gò Vấp bị mất số tiền 600.000 tại Shop quần áo chợ Hạnh Thông Tây vào ngày 23/10/2017. Tuy nhiên, qua đấu tranh T không thừa nhận hành vi trộm cắp số tiền của chị P nên không đủ căn cứ để xử lý.

Vật chứng thu giữ:

- Số tiền 600.000 đồng và 01 điện thoại hiệu Oppo Neo 7. Tại Bản kết luận giám định số 227/KL ngày 25/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp, kết luận: giá trị điện thoại Oppo Neo 7 màu trắng, số imei 869299023948779 và 869299023948761 hàng chính hãng, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 13/10/2017 là 1.350.000 đồng. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại 600.000 đồng và điện thoại Oppo cho chị Nguyễn Thị T L.

- Số tiền 11.000.000 đồng, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho chị Lê Thị Bích N.

- Số tiền 2.007.000 đồng (tư vật của T).

- 02 USB (ghi lại hình ảnh của T trộm cắp tài sản).

Tại bản cáo trạng số 05/Ctr-VKS ngày 15/12/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu T về tội “Trộm cắp tài sản ” theo điểm c khoản 2 điều 138 Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội, đưa ra quan điểm xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Trả lại cho bị cáo số tiền 2.007.000 đồng.

- Tịch thu lưu theo hồ sơ vụ án 02 USB lưu giữ hình ảnh vụ việc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì bị cáo Nguyễn Thị Thu T đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2]Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của những người bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng bị cáo Nguyễn Thị Thu T phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điều 138 Bộ luật hình sự.

[3]Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của những người bị hại, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, bị cáo sẵn sàng phạm tội để có tiền tiêu xài mà không phải thông qua lao động chân chính, bất chấp hậu quả xảy ra. Tài sản bị cáo trộm cắp là số tiền 11.000.000 đồng, số tiền 600.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo Neo 7 được định giá là 1.350.000 đồng, bên cạnh đó xét bị cáo có nhân thân xấu, có 02 tiền án chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo theo điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích. Đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4]Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo các tình tiết: Tại cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 138 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6]Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên toà hôm nay những người bị hại vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện những người này đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

[7]Về xử lý vật chứng:

- Đối với 02 USB ghi lại hình ảnh của bị cáo trộm cắp tài sản là vật chứng vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu lưu theo hồ sơ vụ án.

- Đối với số tiền 2.007.000 đồng là tư vật của bị cáo không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T 03(ba) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 23/10/2017.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu lưu theo hồ sơ vụ án 02 USB lưu giữ hình ảnh vụ việc

- Trả lại cho bị cáo số tiền 2.007.000 đồng.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 643/PNK ngày 02/11/2017 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên toà có thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:11/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về