Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 14/05/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 11/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 37/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Th, sinh năm 1988.

Đa chỉ: Thôn TN 2, xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Anh Đ, sinh năm 1989.

Đa chỉ: Thôn TN 2, xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam.

Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Nam Hà. Đóng tại xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam. Anh Đ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 12/3/2019 và lời khai tại Tòa án, chị Lê Thị Th là nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Anh Đ lấy nhau tự nguyện, trước khi cưới có được tự do tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại UBND xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam ngày 13/02/2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn tại thôn TN 2, xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Đ không tu trí làm ăn, lại mắc nghiện ma túy, chị đã nhiều lần khuyên can nhưng anh Đ không từ bỏ được ma túy dẫn đến vợ chồng thường xảy ra xô xát, cãi, chửi nhau, tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt.

Tháng 10/2016, anh Đ bị bắt vì có hành vi mua bán trái phép chất ma túy và đến tháng 01/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 08 năm 06 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Từ khi anh Đ bị bắt đến nay, vợ chồng chị sống ly thân, chấm dứt quan hệ vợ chồng và không ai còn quan tâm gì đến cuộc sống, tình cảm của nhau Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ để chị ổn định cuộc sống.

Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 24/4/2019, anh Nguyễn Anh Đ là bị đơn trình bày: Về thời gian, điều kiện kết hôn, thời gian chung sống và thời gian sống ly thân đúng như chị Th trình bày. Trong quá trình chung sống, giữa vợ chồng anh có xảy ra những va chạm, xích mích. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, mong muốn chị Th rút đơn ly hôn, đợi anh về cùng nuôi dậy con cái. Nếu chị Thnhất quyết ly hôn thì anh nhất trí. Do anh đang phải chấp hành án tại Trại giam Nam Hà, anh đề nghị Tòa án cho anh vắng mặt tại phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh.

Về con chung: Chị Th, anh Đ đều trình bày: Vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Thảo V, sinh ngày 02/3/2012 và cháu Nguyễn Thùy Ch, sinh ngày 20/4/2015. Hiện cả hai cháu đang ở với chị Th. Khi ly hôn, nguyện vọng của hai bên xin được nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu phía bên kia phải cấp dưỡng cho con.

Về con riêng: Không có.

Về tài sản chung, riêng; công nợ; công sức đóng góp và diện tích đất nông nghiệp: Chị Th, anh Đ đều trình bày không có.

Tại phiên tòa, chị Lê Thị Th vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không sửa đổi, bổ sung gì. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của người tham gia Tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng theo quy định pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 55, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị Th. Xử:

1. Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Anh Đ.

2. Giao cháu Nguyễn Thảo V, sinh ngày 02/3/2012 và cháu Nguyễn Thùy Ch, sinh ngày 20/4/2015 cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, lao đông tự lập được. Anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung theo sự tự nguyện của chị Th.

3. Án phí: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện của chị Lê Thị Th yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với anh Nguyễn Anh Đ là bị đơn; địa chỉ: Thôn TN 2, xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Nam Hà, đóng tại xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Anh Nguyễn Anh Đ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa, không ai đề nghị hoãn phiên tòa nên đây là trường hợp bị đơn vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Anh Đ kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam ngày 13/02/2014, đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Đ không tu trí làm ăn, mắc nghiện ma túy, chị Th đã nhiều lần khuyên can nhưng anh Đ không từ bỏ được ma túy, dẫn đến vợ chồng thường xảy ra xô xát, cãi, chửi nhau. Ngày 19/01/2017, anh Đ bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 08 năm 06 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Vợ chồng sống ly thân, chấm dứt quan hệ vợ chồng từ đó đến nay và không ai còn quan tâm gì đến cuộc sống, tình cảm của nhau. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, chị Th xin ly hôn, anh Đ nhất trí. Việc thuận tình ly hôn giữa chị Th, anh Đ là tự nguyện, có căn cứ, phù hợp với Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Th, anh Đ có hai con chung là cháu Nguyễn Thảo V, sinh ngày 02/3/2012 và cháu Nguyễn Thùy Ch, sinh ngày 20/4/2015. Khi ly hôn, chị Th, anh Đ không thỏa thuận được về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con. Mặc dù nguyện vọng nuôi con của hai bên là chính đáng, song xét thấy, anh Đ đang phải chấp hành án phạt tù, không có điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, bên cạnh đó các cháu đang ở với chị Th được chị Th nuôi dưỡng tốt đảm bảo quyền lợi mọi mặt. Do đó giao cả hai cháu cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh Đ không phải cấp dưỡng cho con theo sự tự nguyện của chị Th là phù hợp với các Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con riêng: Không có.

[4] Về tài sản chung, riêng; công nợ; công sức đóng góp và diện tích đất nông nghiệp: Không có.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Anh Đ thuận tình ly hôn nên mỗi bên phải chịu 50% án phí ly hôn. Tại phiên tòa, chị Th xin chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm (Chị Th xin chịu thay cả phần án phí ly hôn sơ thẩm của anh Đ). Xét thấy sự tự nguyện của đương sự là phù hợp pháp luật, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 272; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 228; Điều 271; Điều 272; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 55, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Anh Đ.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thảo V, sinh ngày 02/3/2012 và cháu Nguyễn Thùy Ch, sinh ngày 20/4/2015 cho chị Thiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, lao động tự lập được. Anh Đ không phải cấp dưỡng cho con theo sự tự nguyện của chị Th.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Án phí: Chị Th chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm (Chị Th xin chịu thay cho cả phần án phí ly hôn của anh Đ), được đối trừ số tiền tạm ứng án phí chị Th đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu tiền số 0001510 ngày 21 tháng 3 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Chị Th đã nộp đủ.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 14/05/2019 về ly hôn

Số hiệu:11/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về