Bản án 11/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 11/2019/HS-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2019/TLST - HS ngày 20 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 11/2019/QĐXXST - HS ngày 03 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Hà Văn N, sinh ngày 07 tháng 4 năm 1971 tại huyện M, tỉnh Hòa Bình; nơi ĐKHKTT: Xóm H, xã M, huyện M, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Xóm L, xã V huyện M, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 10/10; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn C, sinh năm 1950 và bà Hà Thị H, sinh năm 1952, bị cáo có vợ là Khà Thị H, sinh năm 1975 và có 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Đã từng bị Công an huyện Mai Châu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy năm 2004; đã từng bị Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xử phạt 02 năm tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo bản án số: 36/2016/HSST ngày 12/6/2016; đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc năm 2012; chưa bị xử lý kỷ luật lần nào, có nghiện chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ ngày 30/12/2018 chuyển tạm giam ngày 08/01/2019. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ, ngày 30/12/2018 tổ công tác Công an huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình phối hợp với tổ công tác Công an tỉnh Hòa Bình làm nhiệm vụ trên tuyến QL15 thuộc địa phận xóm L, xã V, huyện M, tỉnh Hòa Bình phát hiện Hà Văn N đi bộ theo hướng xóm L – xóm Kh. Kiểm tra đối với Hà Văn N phát hiện trong túi áo khoác bên trái đang mặc có một gói nilon màu hồng bên trong chứa 02 viên nén hình trụ màu hồng. Xác định có dấu hiệu tội phạm, tổ công tác đã đưa Hà Văn N cùng vật chứng đến Ủy ban nhân dân xã V, huyện M để tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng để xác minh, làm rõ.

Tại Cơ quan điều tra Hà Văn N khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 17 giờ chiều ngày 29/12/2018 Hà Văn N đi nhờ xe với một người đàn ông không quen biết từ xóm L, xã V đến Bản Kh, xã T, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa để tìm mua ma túy. Trên đường vào Bản Kh thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông khoảng tầm 50 tuổi, N có hỏi mua ma túy và được người phụ nữ đó bán cho 03 viên ma túy tổng hợp với số tiền là 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, N lấy một nửa viên sử dụng sau đó gói số ma túy còn lại ra ngoài đường đi nhờ xe để về nhà. Khoảng 9 giờ ngày 30/12/2018, N tiếp tục sử dụng nửa viên, còn 02 viên N cất giấu vào trong túi áo khoác bên trái của N treo ở nhà, đến khoảng 16 giờ cùng ngày N đem 02 viên ma túy đến xóm Kh, xã V, huyện M, tỉnh Hòa Bình để tìm nơi tiếp tục sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình và tổ công tác Công an tỉnh Hòa Bình phát hiện bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số: 306/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 06/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình đã kết luận: 02 viên nén hình trụ màu hồng trong phong bì niêm phong ghi tên Hà Văn N gửi giám định có tổng khối lượng 0,20 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số: 10/CT-VKS-HS ngày 20/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố Hà Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, hình phạt: Đề nghị tuyên bố bị cáo Hà Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 và 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Hà Văn N từ 12 tháng đến 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 30/12/2018.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng, không có điều kiện thi hành nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị tịch thu toàn bộ số ma túy thu được, sau khi giám định còn lại đã hoàn trả, để tiêu hủy.

Về các vấn đề khác:

- Đối với người phụ nữ dân tộc Mông mà bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không đủ căn cứ để xử lý.

- Đối với người đàn ông mà bị cáo xin đi nhờ xe, trong quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không đề cập.

Đề nghị áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ý kiến của bị cáo: Đã nhận được đầy đủ các văn bản tố tụng của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, quá trình điều tra, truy tố xét xử đã được phổ biến quyền và nghĩa vụ của mình, không bị ép cung, mớm cung, đồng ý với nội dung Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm không có thắc mắc gì. Nguyên nhân vi phạm pháp luật là không làm chủ được bản thân do nghiện ma túy, tàng trữ để sử dụng không có mục đích vận chuyển, mua bán. Sau sự việc xảy ra đã thành khẩn khai báo, có bố là người có công với cách mạng mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Những chứng cứ xác định có tội: Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng, như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 30/12/2018 tại xóm L, xã V, huyện M, tỉnh Hòa Bình, Hà Văn N bị bắt quả tang khi đang tàng trữ trái phép trong túi áo khoác bên trái N đang mặc 0,20 gam Methamphetamine.

[2] Chứng cứ xác định không có tội: Không có.

[3] Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước và toàn thể xã hội đang tìm mọi biện pháp đẩy lùi tệ nạn ma tuý ra khỏi cộng đồng bởi tác hại rất lớn của nó. Bản thân bị cáo đã từng bị xử lý hành chính, hình sự nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học sửa chữa lỗi, lầm tu dưỡng rèn luyện. Do cần có chất ma tuý để sử dụng cho bản thân nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý Nhà nước về chất ma túy. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có bố đẻ là ông Hà Văn C là người có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt từ 12 đến 18 tháng tù, xét thấy khung hình phạt quy định từ 01 năm đến 05 năm, bị cáo tàng trữ 0,20 gam, mức tối thiểu quy định là 0,1 gam, về nhân thân của bị cáo đã từng bị xử lý hành chính nhiều lần và đã bị xử lý về hình sự nên mức đề nghị xử phạt từ 12 tháng đến 18 tháng tù là chưa phù hợp nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Từ tính chất mức độ, nguyên nhân, hậu quả của hành vi phạm tội, tiền án, tiền sự, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã nêu trên, xét cần xử phạt tù có thời hạn với mức án nghiêm khắc trên mức đề nghị này, nhưng phù hợp đối với bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, tạm giam sau khi tuyên án và về các vấn đề khác mà đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đã có ý kiến đề nghị nêu trên. Xét thấy có căn cứ phù hợp quy định pháp luật cần xử lý, giải quyết theo hướng đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo Hà Văn N phải nộp án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Tuyên bố bị cáo Hà Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Hà Văn N 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 30/12/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroin còn lại sau khi giám định, được niêm phong trong 01 phòng bì. (Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu, tình trạng, đặc điểm vật chứng được ghi trong Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 19/THA ngày 04/4/2019 giữa bên giao Công an huyện Mai Châu, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Hà Văn N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:11/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về