Bản án 113/2018/HNGĐ-ST ngày 06/09/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình - xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 113/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH - XIN LY HÔN

Ngày 06 tháng 09 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 209/2018/TLST-HNGĐ ngày 14/6/2018, về việc: "Tranh chấp về Hôn nhân gia đình - Xin ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 332/2018/QĐXX-ST ngày 03 tháng 08 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 197/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20/8/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Mai Thị T, sinh năm 1992 (Có mặt)

Địa chỉ: ấp Tân Phú, xã Tân Thành, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1989 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp Tây Sơn, thị trấn Núi Sập, huyện Thoại sơn, tỉnh An Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Mai Thị T trình bày:

Chị Mai Thị T và anh Nguyễn Văn Ksống chung với nhau vào năm 2007 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn vào ngày 28/12/2010. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và đã có 01 con chung. Nhưng sau đó vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, tính tình không còn phù hợp, do anh K không lo cho gia đình hay nhậu nhẹt và còn hay xúc phạm gia đình cha mẹ chị T, hiện chị T và anh K đã không còn sống chung từ năm 2016, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và kéo dài. Nên, chị T yêu cầu được ly hôn với anh K.

Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Mai Trang, sinh ngày 27/4/2011. Hiện con đang sống với anh K, sau khi ly hôn chị T yêu cầu, nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Anh Nguyễn Văn K trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo hòa giải và đã được triệu tập hợp lệ đến Tòa án để làm việc nhưng anh Nguyễn Văn K vẫn vắng mặt không lý do nên không ghi nhận được ý kiến của anh Nguyễn Văn K và không tiến hành hòa giải được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hình thức: Chị Mai Thị T có đơn xin ly hôn anh Nguyễn Văn K có địa chỉ cư trú ấp Tây Sơn, thị trấn Núi Sập, huyện Thoại sơn, tỉnh An Giang. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Tại phiên tòa hôm nay, anh Nguyễn Văn K đã được Tòa án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ để dự phiên tòa, nhưng anh K vẫn vắng mặt không lý do, căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn anh K.

[2] Về nội dung: Nhận thấy chị Mai Thị T và anh Nguyễn Văn K sống chung với nhau năm 2007 và có đăng ký kết hôn năm 2010 theo quy định của pháp luật nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Thời gian gần đây, đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Nguyễn Văn K không lo cho gia đình, cả hai thường xuyên cự cãi và không còn sống chung từ năm 2016 đến nay. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết, đã tạo điều kiện cho các bên hàn gắn nhưng anh Nguyễn Văn K đều không đến, điều này thể hiện tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh K mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

Về con chung: Trong quá trình sống chung anh K và chị T sinh được 01 con chung tên Nguyễn Mai Trang, sinh ngày 27/4/2011. Hiện con đang sống với anh K, sau khi ly hôn chị T yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu nuôi con của chị T thì thấy, trong quá trình cháu Trang chung sống với anh K, anh K có chăm sóc cho con tốt, nhưng hiện nay anh K đang đi làm xa không có điều kiện trực tiếp chăm sóc con và tại biên bản lấy lời khai ngày 14/6/2018 nguyện vọng của cháu Trang muốn sống với chị T, do đó để tạo điều kiện cho cháu Trang được gần mẹ theo nguyện vọng của cháu Trang và tạo cho cháu ổn định về tâm lý, sinh hoạt hàng ngày nên chấp nhận cho chị T được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung, anh I K không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Ghi nhận chị T xác định không có nợ chung nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh chị trong thời kỳ sống chung thì chị T và anh K vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[3]Về án phí sơ thẩm: Chị T có đơn yêu cầu khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Mai Thị T

Về quan hệ hôn nhân: Chị Mai Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn K.

Về quan hệ con chung: Anh Nguyễn Văn K có nghĩa vụ giao con chung tên Nguyễn Mai Trang, sinh ngày 27/4/2011 cho chị Mai Thị T chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh I K không trực tiếp nuôi con chung nhưng anh có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh K thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Ghi nhận chị T xác định không có nợ chung nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh chị trong thời kỳ sống chung thì chị T và anh K vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Về án phí: Chị Mai Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001224 ngày 14/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được Thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2018/HNGĐ-ST ngày 06/09/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình - xin ly hôn

Số hiệu:113/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về