Bản án 113/2018/HNGĐ-ST ngày 18/10/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 113/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/10/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 18/10/2018, tại trụ sở TAND huyện N tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 280/2018/TLST-HNGĐ ngày 28/6/2018, về việc: Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2018/QĐST-HNGĐ ngày 31/8/2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Phạm Đình Th, sinh năm 1980;

Địa chỉ: Thôn S, xã C, huyện N, tỉnh Bắc Giang, (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Thôn S, xã C, huyện N, tỉnh Bắc Giang, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 23/5/2018 và các lời khai nguyên đơn anh Phạm Đình Th trình bày:

Anh và chị Phạm Thị L kết hôn ngày 10/11/2000, tại UBND xã C, huyện N. Trước khi kết hôn hai bên có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau trên cơ sở hợp pháp. Sau lễ cưới chị L có về gia đình anh làm dâu. Vợ chồng chung sống, hòa thuận hạnh phúc và có hai con chung nhưng cũng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống và làm kinh tế gia đình nên chị bỏ về nhà mẹ đẻ sống ly thân từ năm 2008 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm và thương yêu nhau nữa. Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và không thể đoàn tụ được nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Phạm Thị L.

Về con chung, tài sản, công nợ, ruộng canh tác vợ chồng không có gì vướng mắc nên anh không yêu cầu Tòa án đặt ra xem xét, giải quyết.

Vì lý do bận công việc nên anh Phạm Đình Th có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa, anh Phạm Đình Th vắng mặt.

Chị Phạm Thị L là bị đơn có địa chỉ tại thôn S, xã C, huyện N, tỉnh Bắc Giang đã được Tòa án giao, tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng hết thời hạn được quy định chị L không có ý kiến, quan điểm và chứng cứ cung cấp, giao nộp cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

Tại phiên tòa, chị Phạm Thị L vắng mặt.

Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký Tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng, tại phiên tòa Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51 và Điều 56 Luật HNGĐ xử: Cho anh Phạm Đình Th được ly hôn với chị Phạm Thị L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1]. Về tố tụng: Ngày 31/8/2018, Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập phiên tòa cho các đương sự để mở phiên tòa xét xử vào 07 giờ 30’ ngày 24/9/2018 theo đúng quy định của pháp luật. Do chị Phạm Thị L vắng mặt lần thứ nhất nên Tòa án đã hoãn phiên tòa và ấn định mở phiên tòa xét xử lần hai vào 07h 30’ ngày 18/10/2018. Tòa án đã tiến hành tống đạt, đã triệu tập hợp lệ các đương sự nhưng chị Phạm Thị L vẫn vắng mặt, còn anh Phạm Đình Th vì L do công việc bận nên có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 BLTTDS, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án: Anh Phạm Đình Th và chị Phạm Thị L kết hôn ngày 10/11/2000, tại UBND xã C, huyện N. Trước khi kết hôn hai bên có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau trên cơ sở hợp pháp. Sau lễ cưới chị L có về gia đình anh Th làm dâu. Vợ chồng chung sống, hòa thuận hạnh phúc và có hai con chung nhưng cũng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống và làm kinh tế gia đình nên chị L bỏ về nhà mẹ đẻ sống ly thân từ năm 2008 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm và thương yêu nhau nữa. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và không thể đoàn tụ được nên anh Phạm Đình Th đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Phạm Thị L.

Xét thấy, cuộc sống chung vợ chồng anh Th và chị L đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy nguyện vọng xin được ly hôn của anh Th là chính đáng, là có cơ sở và phù hợp với quy định Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên cần được HĐXX xem xét, chấp nhận.

[3]. Về con chung, tài sản, công nợ; ruộng canh tác: Vợ chồng không có gì vướng mắc nên các đương sự không đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết. Căn cứ vào Điều 5 của BLTTDS, HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4]. Về án phí và quyền kháng cáo: Anh Phạm Đình Th phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm ly hôn. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, 56 và Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, 147, 227, 228, 238, 266, 271, 272 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Cho anh Phạm Đình Th được ly hôn với chị Phạm Thị L.

2. Về án phí: Buộc anh Phạm Đình Th phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí anh Th đã nộp theo biên lai thu số 0003284 ngày 27/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện N.

Báo cho các đương sự vắng mặt tại phiên tòa biết, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết công khai bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2018/HNGĐ-ST ngày 18/10/2018 về ly hôn

Số hiệu:113/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về