Bản án 113/2018/HS-ST ngày 11/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 113/2018/HS-ST NGÀY 11/07/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 7 năm 2018 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 84/2018/HSST ngày 09/5/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2018/QĐXXST-HS ngày 19/6/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2018/QĐST-HS ngày 03/7/2018 đối với các bị cáo:

1/ Lê Thị N; Giới tính: Nữ; sinh năm: 1965 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: phường 15, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị S; Hoàn cảnh gia đình: Có chồng tên Phạm Văn H, có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1993; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 02/3/2018 (có mặt).

2/ Lê Hồng Bích H; Giới tính: Nữ; sinh năm: 1982 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: phường 6, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Lê Quang P và bà Nguyễn Thị T; Hoàn cảnh gia đình: Có chồng tên Đỗ Xuân K, có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 02/3/2018 đến ngày 09/3/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại(có mặt).

Bị hại: Bà Nguyễn Thị Diễm T, trú tại: huyện Hiệp Thạnh, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Ngô Hoài T, trú tại: phường 12, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2/ Ông Võ Thanh T, trú tại: phường 15, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 01/3/2018, Lê Thị N điều khiển xe máy biển số 54L1-0034 đến nhà của Lê Hồng Bích H tại chung cư Bình Đăng, phường 6, Quận 8 rủ H đi đến siêu thị Vincom tại địa chỉ: phường 7, quận Gò Vấp để trộm cắp tài sản của người khác bán lấy tiền chia nhau tiêu xài thì H đồng ý. Sau đó, N đưa xe cho H điều khiển chở N đến siêu thị Vincom, khi đến nơi cả hai ngồi quan sát không thấy ai để tài sản sơ hở để trộm. Đến 16 giờ cùng ngày, N và H mua vé vào rạp chiếu phim số 4 ngồi ở hàng ghế L. Lúc này, Nhàn thấy chị Nguyễn Thị Diễm T ngồi kế bên sử dụng điện thoại và bỏ vào trong ba lô để ở dưới chân, N nãy sinh ý định chiếm đoạt nên giả vờ làm rớt chìa khóa rồi cúi xuống nhặt chìa khóa và dùng tay mở ba lô của chị T lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, sau đó N đưa điện thoại cho H cất giấu và đi ra ngoài trước. Một lúc sau, H cũng đứng lên đi ra ngoài rồi cả hai đi xuống tầng hầm của siêu thị lấy xe để tẩu thoát, thì bảo vệ của siêu thị mời vào phòng làm việc. Tại đây, chị T xác định chiếc điện thoại Iphone 7 Plus mà bảo vệ siêu thị thu giữ trong giỏ sách của H là của chị T nên báo Công an phường 7, quận Gò Vấp đến đưa về trụ sở làm việc.

Vật chứng thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus. Tại bản kết luận định giá tài sản số 62/KL ngày 07/3/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng UBND quận Gò Vấp kết luận: Giá trị điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus 128 GB số imei 3538145084927810, đã qua sử dụng. Tại thời điểm ngày 02/3/2018 trị giá 15.000.000 đồng, cơ quan điều tra đã trả cho chị Thùy;

- 01 chiếc xe máy biển số 54L1-0034, số máy: VME152FMHC104014, số khung: RMEWCHMME7A104014 N khai mượn của Võ Thanh T. Qua xác minh xe máy này do anh Ngô Hoài T đứng tên đăng ký, anh T đã bán cho Quách Hoàng V, anh V bán lại cho anh Võ Thanh T. Ngày 01/3/2018, N mượn xe đi công việc và sử dụng vào việc phạm tội anh T không biết, Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng theo phiếu nhập số 61/PNK ngày 27/3/2018 chờ xử lý.

Tại cơ quan điều tra Lê Thị N và Lê Hồng Bích H đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 93/CT-VKSGV ngày 08/5/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố các bị cáo Lê Thị N, Lê Hồng Bích H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội, đưa ra quan điểm xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử

- Xử phạt bị cáo Lê Thị N từ 09 tháng đến 01 năm tù.

- Xử phạt bị cáo Lê Hồng Bích H từ 09 tháng đến 01 năm tù.

- Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo;

- Trả lại cho ông Võ Thanh T 01 xe gắn biển số 54L1-0034, số máy: VME152FMHC104014, số khung: RMEWCHMME7A104014;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì các bị cáo Lê Thị N, Lê Hồng Bích H đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để kết luận các bị cáo Lê Thị N, Lê Hồng Bích H phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của bị hại, các bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của các bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, các bị cáo sẵn sàng phạm tội để có tiền tiêu xài mà không phải thông qua lao động chân chính, bất chấp hậu quả xảy ra. Tài sản các bị cáo trộm cắp là 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus đã qua sử dụng, được định giá 15.000.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có cơ sở.

Đây là vụ án có đồng phạm nhưng thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, bị cáo N rủ bị cáo H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì bị cáo H đồng ý, bị cáo N trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người bị hại rồi sau đó đưa cho bị cáo H cất giữ, bị cáo H giữ vai trò đồng phạm giúp sức, nên hình phạt cho bị cáo N cao hơn bị cáo H. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích. Đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho các bị cáo các tình tiết: Tại cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên toà hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản bị cáo trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung được qui định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của các bị cáo nên miễn phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên toà hôm nay, người bị hại là bà Nguyễn Thị Diễm T vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện bà T đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe gắn biển số 54L1-0034, số máy: VME152FMHC104014, số khung: RMEWCHMME7A104014, qua xác minh xe này do ông Ngô Hoài T đứng tên đăng ký, ông T đã bán cho Quách Hoàng V, ông V bán lại cho ông Võ Thanh T. Bị cáo N sử dụng xe làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội ông T không biết và cũng không liên quan, tại phiên tòa hôm nay ông T yêu cầu được nhận lại chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại, Hội đồng xét xử quyết định trả lại chiếc xe trên cho ông T;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 173; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố các bị cáo Lê Thị N, Lê Hồng Bích H phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt bị cáo Lê Thị N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 02/3/2018.

Xử phạt bị cáo Lê Hồng Bích H 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày bắt chấp hành án (được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/3/2018 đến ngày 09/03/2018).

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Trả lại cho ông Võ Thanh T 01 xe gắn biển số 54L1-0034, số máy: VME152FMHC104014, số khung: RMEWCHMME7A104014;

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 61/PNK ngày 27/3/2018 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2018/HS-ST ngày 11/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:113/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về